Cố Niên Hoa

Chương 38: Phụng múa, nghê chầu [1]



Sau khi giúp tôi đưa lão già về phòng và băng bó lại vết thương cho lão, anh Thân đưa tay mời tôi ra sân, khẽ khàng đóng cửa phòng lão lại:

- Đêm nay tôi sẽ ở đây trông chừng vương gia, mời cô Nhã Phong đi nghỉ ạ. Từ lúc về đến giờ cô đã nghỉ được chút nào đâu!

- Em không mệt. – Tôi mỉm cười. – Em đã hứa với tiên sinh sẽ gác cửa đến khi người tỉnh dậy.

Thường ngày, người phu xe kiêm cận vệ thân tín của lão già nhà tôi sẽ luôn càu nhàu thêm vài câu dù biết rồi tôi cũng bỏ ngoài tai, song hôm nay anh lại chỉ giương mắt nhìn tôi giây lâu, đoạn mỉm cười thật buồn rồi vẫy tay gọi người mang một chiếc ghế trúc đặt trước thềm, không quên mang thêm ấm trà nóng và ít bánh mứt cho tôi. Anh ngồi trên bậc đá, nhìn ra khoảng sân tối mênh mông, ánh mắt xa xăm như thể đang nhớ lại chuyện từ kiếp trước. Tôi tựa sâu vào lưng ghế, kéo áo choàng kín cổ, ung dung chăm trà rồi đưa một chén mời anh.

- Vết thương của vương chỉ bị động vì đường xa, cô đừng lo lắng quá. – Anh ủ chén trà trong tay, ân cần động viên tôi.

- Anh Thân băng bó thạo nghề như thế, em không lo. – Tôi mỉm cười, cao hứng hỏi chuyện xưa của lão già. – Chắc lúc nhỏ tiên sinh cũng hiếu động, hay bị thương để anh phải trổ tài ạ?

Anh Thân cười hiền, khẽ lắc đầu:

- Từ lúc tôi theo vương gia, vương đã không giống một đứa trẻ rồi, nếu có bị xây xát thì cũng vì tập luyện kiếm cung, không phải do nghịch ngợm đâu.

Tôi hơi ngạc nhiên trước lời anh nói, vì trước đây qua lời kể của cụ Đảm, lão già khi còn trẻ cũng sôi nổi và thích phiêu lưu. Ngay cả đến bây giờ, khi tuổi đã cao, bên ngoài diện mạo luôn từ tốn, nho nhã kia, lão vẫn hành sự tùy hứng và ưa chọc tôi nổi cáu thì lẽ nào lúc thơ ấu lão lại đĩnh đạc, quy củ được?

Như hiểu được những thắc mắc trong lòng tôi, anh Thân giải thích:

- Mấy năm đầu tiên tôi đến Yên Bang, vương gia rất trầm lặng, chưa hề nổi nóng với ai nhưng cũng rất ít khi đùa. Về sau, chắc nhờ thiền sư Phúc Đường khai tâm, trông vương càng lúc càng thư thái, ung dung. Đến khi cô Nhã Phong vào phủ, tôi bắt đầu thấy vương cười nhiều hơn trước.

- Vâng, cả ngày mang em ra làm trò đùa thì lại chẳng cười? – Tôi hậm hực nhớ lại chuyện con sâu vừa nãy.

- Vương nói với tôi, cô Nhã Phong cho vương nhìn rõ sơ tâm. – Anh vẫn từ tốn giải thích.

Lão già từng dạy tôi, "sơ tâm" của một đứa trẻ là thứ gần Phật nhất. Một đứa trẻ thấy hoa mai thì biết đó là hoa mai, không chấp trước, không nhìn hoa mai nhớ hoa cúc rồi khởi niệm so sánh xấu đẹp, càng không giảng giải sâu xa rằng hoa mai cao quý vì đã kiêu hãnh vượt qua giá rét thế nào. Con người lớn lên, trải nghiệm nhiều hơn, hiểu biết nhiều hơn nhưng lại vô tình đánh mất cái "biết" thuở ban đầu, lúc nào cũng vấn vương những nuối tiếc từ quá khứ, những lo lắng về tương lai mà quên mất việc tận hưởng niềm vui ở thời khắc hiện tại, quên cách nhìn sự vật như nó vốn là.

- Chắc do đầu óc em đơn giản, lại vô tâm, có muốn lo nghĩ cũng không lo nghĩ được nhiều. – Tôi đáp.

- Cô Nhã Phong vô tâm thì sao có thể vừa về đến đã nhớ việc chân của nhà tôi hay đau mỗi khi trở trời mà ban thêm thuốc quý. – Anh cười hiền.

Tôi phì cười, gật gù đồng ý với lời tán thưởng của anh mà không nói gì thêm. Không biết lão già sẽ tỉnh lại khi nào, tôi vừa mong lão chóng khỏe lại, vừa hy vọng lão có thể nghỉ ngơi lâu hơn một chút để cơ thể phục hồi.

Đang vừa nhấm trà vừa nghĩ ngợi lung tung thì tôi trông thấy sư ông khoan thai đi đến. Tôi nhanh nhẹn đến chào, anh Thân sốt sắng mang thêm ghế, thêm một tách trà.

- Tuệ Trung thế nào rồi? – Sư ông ôn tồn hỏi.

- Bạch sư ông, tiên sinh đã hạ sốt, hiện đang ngủ say ạ. – Tôi lễ phép thưa.

- Huệ Tâm cũng bị thương phải không, con nên chóng về phòng tĩnh dưỡng.

- Bẩm thiền sư. – Anh Thân hào hứng đáp thay tôi. – Vương gia nay đã có người gác cửa thay để nghỉ ngơi một chút rồi.

Sư ông nhìn anh Thân rồi lại nhìn tôi, đoạn gật gù như hiểu ra điều gì, mỉm cười hiền từ.

- Có chuyện gì mà Huệ Tâm chưa biết không ạ? – Tôi hiếu kỳ hỏi cả hai người.

- Năm đó, khi không ngăn được Khâm Minh đại vương gây loạn, nữ quyến và trẻ nhỏ trong phủ đều đến lánh nạn ở Phúc Đường. – Anh Thân chậm rãi kể. – Vương gia là trưởng tử nên đã cùng Hưng Đạo vương cầm kiếm trấn giữ ở cổng tinh xá suốt một ngày một đêm giữ an toàn cho mọi người, đợi đến khi lệnh ân xá của quan gia được ban đến.

- Em nghe nói anh Thân theo tiên sinh cũng từ lúc ấy? – Tôi khẽ hỏi, trong đầu lờ mờ hình dung ra tình cảnh khi ấy và dáng đứng oai nghiêm của một Hưng Ninh vương vừa lên bảy.

- Thưa vâng. – Người phu xe đáp.

Kể từ lúc ấy, đã hơn hai mươi năm trôi qua, dù có thấu suốt Phật lý thế nào, hiểu rõ cái lẽ "chim mỏi đậu khóm lau, cá mệt dừng đáy nước"[2] ra sao, thì ngày nào còn sống giữa những người họ Trần, lão già của tôi hẳn còn chưa thể buông xuống những gánh nặng trên vai. Tôi hiểu tâm tư của anh Thân, bởi tôi đã không ít lần xót xa khi nhìn về phía lão.

- Tiên sinh đã đứng ở đó hai mươi năm rồi.

Khẽ giấu tiếng thở dài, tôi rót thêm trà vào chén cho sư ông, dâng bằng hai tay rồi nhìn người chờ đợi. Vị thiền sư đắc đạo thong thả thưởng trà, mông lung nhìn lên nền trời đen thẳm, vừa như suy tư lại vừa như đã nhìn thấu mọi sự trên đời. Giây lâu, người đặt chén trà đã cạn vào tay tôi.

- Chưa từng giữ được trong tay thì làm cách nào để buông bỏ?

Sư ông nói khẽ như thế rồi rời đi, tà áo bay trong gió khuya nhẹ nhàng như một vị tiên ông đang lướt trên mây gió.

Tôi nhìn theo "lão cổ chùy"[3] mà lão già nhà tôi kính trọng hơn bất kỳ ai, suy nghĩ rất lâu vẫn không hiểu được đâu mới thực là thứ lão "chưa từng nắm giữ"? Rồi tôi lại nhớ lời anh Thân bảo giờ lão đã có người gác cổng thay để nghỉ ngơi, chợt thấy mình chẳng khác gì con sấu đá[4] chạm trên thành bậc trước các điện ở Dưỡng Chân trang, hoặc giống như con sư tử chầu dưới tòa sen của Phật. Nghĩ đến đây, tôi vô thức ngồi thẳng lưng, ngẩng đầu, ưỡn ngực để thêm phần oai vệ, miệng mỉm cười cho giống vẻ rạng rỡ bông đùa của bọn chúng dù chẳng ai nhìn thấy.

Làm sấu đá mãi cũng mỏi người, tôi rón rén mở cửa bước vào phòng xem lão có trở sốt giữa đêm không. Lão già của tôi đang say ngủ, rất bình yên. Vì vết thương trên lưng, chúng tôi chỉ có thể đặt lão nằm nghiêng. Vừa hay, trông lão nằm lại giống hệt tư thế nhập Niết Bàn của đấng Thế Tôn.

- Thế là lão sẽ triệt để giác ngộ hay mãi mãi không tỉnh lại nữa nhỉ?

Tôi lẩm bẩm như thế rồi lắc đầu nguầy nguậy để xua đi những ý nghĩ không may. Ngồi xuống cạnh bên giường lão, tôi khẽ khàng sờ trán lão rồi thở ra nhẹ nhõm, thuận tay vuốt mấy sợi tóc lòa xòa phủ xuống đôi mày dài rậm, nhớ đến những lời sư ông và anh Thân nói ban nãy.

- Tiên sinh, có phải em đã đến muộn không?

***

Sáng hôm sau, tôi nhờ chị đến thăm phụ mẫu phó tướng Đỗ Ngạc thay lão già, đồng thời động viên những gia nhân thân cận cứ tiếp tục chuẩn bị đón Tết, dù lão có tỉnh lại kịp hay không. Chị tôi ngạc nhiên:

- Chị thấy em thức suốt đêm trước cửa phòng vương gia, cứ sợ em quá lo mà sinh bệnh. Không ngờ em lại bình tĩnh thế này...

- Thường ngày tiên sinh hay tập luyện nên sức khỏe cũng rất tốt. Người chỉ mệt mỏi rồi ngủ lâu hơn một chút, em không lo lắng ạ.

- Nếu đã vậy thì em về phòng nghỉ đi, đến chiều hãy quay lại. Đây là Dưỡng Chân trang, đâu phải Thăng Long hay chiến trường. – Chị tôi cười cười trêu.

Khi chị thốt ra những chữ cuối cùng, không biết tôi có nhìn lầm không, trong đôi mắt chị nét buồn bã và tiếc nuối thoáng qua rất nhanh. Bỗng dưng tôi lại ngập ngừng mãi mới đáp, dù lý do chỉ có một:

- Nhỡ đâu... tiên sinh tỉnh dậy đúng lúc em không có ở đây.

- Em sợ ngài ấy thất vọng sao? – Chị khẽ cười, hỏi lại.

- Em biết tiên sinh sẽ không trách em. – Tôi đáp. – Nhưng sau này người sẽ không thể nghỉ ngơi thực sự nữa...

Chị tôi nhìn tôi như thể vừa nghe thấy chuyện phi lý nhất trên đời. Tôi cũng không biết nên giải thích tiếp thế nào cho chị hiểu, lại mơ hồ sợ chị buồn dù hoàn toàn không rõ điều gì có thể khiến chị buồn, chỉ đành vỗ ngực:

- Trần Nhã Phong em là nam tử hán đại trượng phu, một lời nói ra như đinh đóng cột, đã hứa trông chừng cho tiên sinh nghỉ thì sẽ trông đến khi người tỉnh lại mới thôi. Nếu không, em còn mặt mũi nào gặp các tướng sĩ Thánh Dực quân nữa ạ?

Chị tôi phì cười rồi dịu dàng đưa tay chỉnh lại áo choàng đang khoác trên người tôi, sau đó lặng lẽ rời đi. Bác Dương lúc này mới đưa đến một mâm thức ăn nóng sốt, tôi chén sạch trong nháy mắt. Bác cười hiền, mắng yêu:

- Cháu sắp gả chồng được rồi mà vẫn háu ăn thế này!

Tôi sững người trong tích tắc rồi lại nhanh nhảu ôm tay bác:

- Của hồi môn cháu chả cần bạc vàng châu báu gì cả, chỉ xin đưa bác Dương theo để tiếp tục ăn món ngon thôi ạ.

Người vú già cũng chịu thua trước miệng lưỡi ngọt như mật của tôi, chỉ biết cười. Tôi miên man nghĩ đến mâm cỗ thịnh soạn đêm giao thừa, rồi sáng đầu năm, cái bụng vừa no lại muốn đói. Chợt tôi nhớ ra:

- Bác đã muối dưa chưa ạ?

- Bác biết vương gia và cháu đều thích món này nên đã bắt tay làm từ sớm rồi, chỉ còn một ít nữa thôi.

- Thế... bác cho người mang cả sang đây, cháu cùng làm bác cho vui ạ.

Chẳng mấy chốc, cả khoảng sân trước phòng của lão già đã phơi đầy nào giá đỗ, nào củ cải, nào đu đủ, măng trúc... Tôi thoăn thoắt gọt vỏ củ cải, tỉa thành hình bông hoa cho xinh đẹp, miệng không ngừng ngâm nga mấy bài đồng dao vui tai. Thỉnh thoảng, tôi sẽ tìm cách gợi chuyện để bác Dương kể về tuổi thơ của lão già. Buổi sáng ngày thứ nhất cứ như thế lặng lẽ trôi qua.

Khi tôi vừa dùng bữa trưa xong, anh Thân dẫn người nhà bác trưởng làng Vạn Niên đến xin gặp. Họ bảo làng muốn dựng một văn bia ở chùa để tưởng nhớ chiến công vừa qua, thỉnh cầu tôi soạn giúp nội dung văn tự để khắc trên bia. Tôi thoái thác ngay:

- Một việc quan trọng thế này mọi người nên đợi vương gia hồi tỉnh.

- Thưa, ông tôi biết tính vương khiêm nhường, sợ rằng vương sẽ không bàn đến công trạng của mình... - Người gia nô rụt rè giải thích.

Tôi lờ mờ hiểu ra ý định của họ, song vẫn thấy mình không phù hợp:

- Nhã Phong tuổi đời còn trẻ, lại chẳng có địa vị tôn quý gì, mọi người nên nhờ vương phi hoặc một trưởng lão đức cao vọng trọng trong làng.

- Thưa, chính vương phi bảo tôi đưa cậu ấy đến gặp cô. – Anh Thân khẽ nói.

- Thường ngày em vênh váo tự kiêu đến thế ư? – Tôi vờ như phật ý, đoạn thấy người gia nô mặt tái hẳn đi, tôi trở lại vẻ chân thành. – Anh Thân giúp em đưa cậu ấy đến hậu viên dùng bữa rồi nghỉ ngơi, đầu giờ Dậu em sẽ hoàn thành.

Cả hai cúi đầu lĩnh ý rồi nhanh chóng rời đi. Bỗng dưng được giao một nhiệm vụ vẻ vang, tôi hào hứng mang giấy bút ra, trong đầu nghĩ sẵn vô số lời hay ý đẹp, ca ngợi tài thao lược của lão già và đức hy sinh của những người như cụ Đảm, như Nguyễn Nam đến tận trời, chỉ sợ kể không đủ, càng sợ nhớ không hết tên những người đã khuất. Song, trong sát na giọt mực đầu tiêng loang trên giấy, có điều gì đó bảo tôi dừng lại. Đặt bút trở vào nghiên mực, tôi ngồi xuống ghế, khẽ thở dài. Truyền nhân của thầy Tuệ Trung sao có thể viết ra những điều mà chính tay thầy Tuệ Trung sẽ không bao giờ viết?

Tôi nhắm mắt hồi tưởng lại hình ảnh của lão già trong suốt cuộc chiến, chợt nhớ ra buổi tế vong linh tướng sĩ của mà lão chủ trì theo lệnh quan gia trước khi trở lại Yên Bang. Vội vã vào phòng lão, tôi tìm chiếc áo mà lão đã mặc trong ngày hôm ấy, khoác lên người. Dáng người lão cao to hơn tôi rất nhiều, thế nên chật vật mãi tôi mới mặc được một cách gọn gàng rồi phỏng theo dáng điệu của lão, từ tốn mở cửa bước ra sân. Cửa vừa mở, một cơn gió mạnh thổi đến khiến tóc tôi rối bù. Tôi khoan thai đưa tay vuốt lại tóc hệt như cách lão hay làm. Chợt, tôi đột nhiên hiểu ra mình phải viết những gì.

Thong thả cầm bút, tôi thấy những con chữ tuôn tràn dưới tay mình. Không có những lời tán tụng, không có những chiến công, càng không có một cái tên cụ thể nào cần phải tạc vào bia đá để ghi dấu ngàn năm. Cả một trang giấy chỉ viết về trách nhiệm của một người dân buổi đất nước lâm nguy, về những kỳ vọng ký thác vào những người còn sống. Hẳn là lúc quyết định cầm gươm xông trận, vị thiền sư phạm sát giới của tôi, độc túc tráng sĩ của tôi và vô số những người lính kia chưa hề nghĩ đến một ngày lưu danh sử sách. Họ chỉ muốn sống lại những ngày thanh bình, có nắng vàng gió nhẹ như ngày hôm nay tôi đang sống. Họ đi rồi, nhưng dáng hình của họ còn ở lại mãi với những tấc đấc mà họ giữ gìn, trong cái dáng điệu cầm cành trúc giả làm gươm đao của mấy đứa trẻ tôi gặp ở đầu làng, trong cái tinh thần chiến đấu quyết liệt mà thượng võ tôi học được từ cụ Đảm khi quyết định tha chết cho tên giặc Thát hôm nào.

Khi đọc lại những gì tôi đã viết, anh Thân chỉ khẽ gật đầu, mỉm cười rất hiền lành. Anh ôn tồn bảo với người gia nô của bác trưởng làng:

- Cậu cứ cam đoan với mọi người rằng vương gia chắc chắn sẽ hài lòng.

Tôi nhìn dáng vẻ phân vân của cậu ta khi trông thấy tôi mặc y phục của lão già, cố nhịn cười, thấy vừa thương vừa tội.

Đêm đến, trong phòng lão già lại vang lên tiếng ho khe khẽ. Lão vẫn hôn mê nhưng người hâm hấp sốt. Tôi hết lau mồ hôi trên trán lại đến quạt mát, xoa lưng cho lão, đôi mày của lão thỉnh thoảng vẫn chau lại. Tôi biết ngoài những vết thương trên người, trong cơn mộng chập chờn kia, lão già của tôi đang phải tự chữa lành những vết thương trong lòng mình. Chợt nhớ đến cái đêm ở làng Giá, tôi cũng trằn trọc mãi không ngủ được, cũng nhờ chú sa di Minh Tịnh giúp tôi bình tâm lại. Tôi biết việc này không có tác dụng với lão già, bởi hẳn lão đã tự trấn an mình như thế suốt hai mươi năm qua, song vẫn không muốn chỉ ngồi yên nhìn lão khó chịu mà lại chẳng làm gì. Tôi bèn nắm lấy bàn tay lão, siết nhẹ như truyền hơi ấm rồi nhỏ giọng đọc chú Dược Sư, đọc một biến rồi lại một biến, đoạn thiếp đi lúc nào chẳng rõ.

***

Khi trời hửng sáng và tiếng chân người đi lại rộn rã bên ngoài, tôi từ từ tỉnh giấc, tay lão vẫn ở trong tay tôi, song lão đã không còn sốt. Tôi khẽ khàng đặt tay lão xuống, thì thầm:

- Chú Dược Sư của em cũng công hiệu phết nhỉ?

Ngủ sai tư thế thật có hại, không những vai và cổ đau nhức, dường như tai tôi cũng ù đi, tôi không thể nghe thấy giọng nói của chính mình, bèn vươn vai rồi trở ra sân.

Người phu xe thân tín của lão già tôi và bác Dương đã ngồi trước cửa phòng từ lúc nào. Họ nhìn tôi đầy lo lắng:

- Cô Nhã Phong đi nghỉ một lúc đi.

- Em không mệt ạ. – Tôi nhoẻn cười. – Phiền bác Dương mang cho cháu ít thức ăn, cháu lại đói rồi.

- Cô đang nói gì vậy ạ? – Anh Thân hỏi lại.

Tôi bật cười trêu anh:

- Anh cũng phải đi nghỉ thôi, mất ngủ mấy đêm nên anh cũng ù tai giống em rồi!

Anh Thân trố mắt ra nhìn, tôi lại nghe bác Dương thảng thốt:

- Nhã Phong, cháu đang nói gì thế, cháu bị mất giọng rồi ư?

Tôi sững người, nhận ra cổ họng mình đang đau rát, chắc vì ở ngoài gió cả ngày và đọc chú cả đêm qua. Khổ não thở dài rồi ngồi phịch xuống ghế, anh Thân lấy chăn đắp lên người tôi, đoạn khẩn khoản xin tôi trở về phòng. Tôi cười cười, xua xua tay trấn an anh ấy, đoạn quay sang bác Dương, cau mày nhăn trán, trỏ tay xuống bụng mình.

- Cô còn bị đau bụng nữa ư? – Người phu xe lo lắng hỏi.

- Không đâu, gương mặt này là muốn xơi bữa sáng rồi. – Bác Dương mắng yêu tôi.

Tôi cười nhăn nhở, người vú già của tôi cười khổ rồi nhanh chóng đi về hướng bếp, anh Thân cũng mang bình trà đã nguội đi thay. Nhân lúc không ai thấy, tôi uể oải đưa tay đấm lên vai, ngáp dài, nghĩ xem mấy ngày sắp tới phải làm gì nếu cả trò chuyện để giết thời gian cũng không được. Tôi lim dim nhìn trời, nghe bọn chim ríu rít gọi nhau đi kiếm mồi, thầm nghĩ khi lão khỏe lại, tôi nhất định phải đòi lão trả công chăm bệnh thật hậu hĩnh. Nhưng trả công thế nào, tôi vẫn phải suy tính thật cẩn thận đã.

- Bác nói gì? Thật không? – Góc bên kia sân có tiếng lao xao.

========== Truyện vừa hoàn thành ==========
1. Bổn Vương Muốn Thanh Tịnh
2. Phong Cách Yêu Thầm Của Nhà Giàu Mới Nổi
3. Tôi Được Người Trong Lòng Của Kẻ Thứ Ba Bao Nuôi
4. Trùng Sinh Để Gặp Người
=====================================

Tôi len lén mở mắt nhìn thì thấy mấy người hầu việc trong Dưỡng Chân trang đang xầm xì to nhỏ với nhau. Tôi ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế đặt khuất sau bụi cây, lại phủ chăn kín người nên hẳn là họ không trông thấy. Tính tò mò nổi lên, tôi dỏng tai nghe:

- Cả kinh thành đang đồn ầm lên rồi, bác còn bảo thật hay không!

- Nghe nói mật đạo ấy là do tiền triều xây dựng, cả quan gia cũng không hay, thế mà Hưng Ninh vương lại biết.

- Bác có nhớ lời đồn năm xưa không, người ta bảo trước lúc lâm chung, Khâm Minh đại vương dặn dò Hưng Đạo vương phải giành được ngôi báu để trả thù.

- Nguy thật, năm đó đại vương gây loạn không thành, ngoại trừ những người họ Trần, cả phủ chẳng còn ai sống sót!

- Nếu trong thời gian chúng ta làm việc ở đây mà Hưng Ninh vương có dã tâm thì chết mất!

- Thường ngày vương đối xử với chúng ta rất tốt, tô thuế thu cũng ít hơn các thái ấp khác...

- Nhưng chúng ta còn có vợ mọn con thơ, cha mẹ già, không thể liều theo vương được!

- Thế thì phải tính sao đây?

- ...

Nói đến đây, cả bọn bỗng dưng im bặt, hóa ra họ nhác thấy bóng anh Thân từ xa, vội vã tản ra ai vào việc nấy. Đến lúc này tôi mới chậm chạp ngồi thẳng dậy, hết nhìn vào phòng lão rồi lại nhìn ra sân, đoạn thở hắt ra, cơn buồn ngủ tan biến từ bao giờ.

Tôi nhận ly trà nóng từ tay anh, nhấp một ngụm rồi chắp tay thỉnh cầu anh, đoạn lại trỏ về hướng mọi người tụ tập khi nãy, sau đó trỏ ra phía cổng, ý muốn nhờ anh ra ngoài nghe ngóng những điều họ vừa nói, xem tin đồn ở kinh thành lan xa đến đâu rồi, quan gia nghĩ thế nào.

- Cô Nhã Phong đừng lo... - Anh Thân ngập ngừng. – Tôi nghe nói quan gia chính là người ra lệnh phải dập tắt tin đồn. Chỉ là mọi người vẫn chỉ tin vào những gì họ muốn tin.

Hóa ra mọi người đều biết cả rồi. Tôi nhếch mép cười nhạt.

- Cô đừng giận. – Người anh thật thà của tôi ôm quyền hành lễ. – Vương gia và cô Nhã Phong vừa về phủ, sức khỏe của vương lại không tốt nên chúng tôi chưa dám báo.

Tôi đưa tay đỡ anh dậy, ôn tồn trỏ tay về phía nơi ở của chị tôi.

- Thưa, vương phi bảo những lời đồn vô căn cứ chỉ cần vài ngày sẽ biến mất, trái lại chúng ta càng thanh minh càng khiến người khác tin rằng ta có tật giật mình.

Tôi ngẫm nghĩ giây lâu. Lẽ thường, giặc vừa tan, năm mới lại sắp đến, mọi người phải vui vẻ hồ hởi mừng chiến thắng, phải bận rộn với bao nhiêu việc đang chờ. Có kẻ nào rỗi việc ác mồm suy diễn hay đồn thổi gì cũng cần đợi một thời gian nữa. Đằng này, bọn tôi còn chưa về nhà thì tin đồn đã đến trước. Nếu như Dưỡng Chân trang rối loạn, người ngoài nhìn vào cũng không tránh khỏi nghi ngờ.

Tôi chậm rãi lắc đầu, không đồng tình với những gì anh nói, rồi trỏ vào phòng của lão già, sau đó làm động tác như có mũi gươm vừa đâm vào ngực.

- Cô nói sao? Có kẻ muốn ám sát vương gia ư? – Anh Thân sửng sốt.

Tôi lắc đầu nguầy nguậy, vội vã xua tay kẻo anh bị kích động mà làm ra chuyện chẳng hay. Không biết nên giải thích thế nào, tôi bèn bẻ một nhánh cây ngay trong tầm tay, đoạn chạy ra phía sau chỗ anh đang đứng, dùng nhánh cây đâm vào lưng người phu xe.

- Ý cô là có kẻ giở trò sau lưng vương? – Anh chậm chạp đoán ra điều tôi muốn nói.

Tôi mừng rỡ vỗ tay tán thưởng. Sau trận chiến này, vị trí của quan gia, của họ Trần càng trở nên vững chắc. Quan gia quý trọng lão già nhà tôi là việc ai cũng biết, người nghi kỵ chỉ còn mỗi thái sư. Muốn lợi dụng sự hoài nghi của thái sư để gây khó cho lão, nếu không chớp lấy cơ hội này khi thái sư vẫn nắm nhiều quyền lực thì còn đợi đến bao giờ?

- Cô Nhã Phong có đoán được là kẻ nào không ạ? – Anh xoay người lại nhìn tôi.

Tôi ngần ngại lắc đầu, rồi cởi áo choàng vứt lên ghế, đoạn búi lại tóc cho gọn gàng. Mạnh mẽ đấm vào ngực mình, tôi muốn trấn an anh rằng dù kẻ ấy là ai, tôi cũng không để hắn đạt được mục đích đâu.

Không ngờ cú đấm quá mạnh khiến tôi lăn ra ho sù sụ.

- --

[1] "Mỗi người phải có một nghề

Con phụng thì múa, con nghê thì chầu."

(Ca dao)

[2] Trích lời tụng của Tuệ Trung Thượng sĩ khi giảng giải kinh Niết Bàn. Hai câu này ý nói: "Chim bay mỏi cánh không bay nữa, nên đậu vào khóm lau để nghỉ. Cá lội mệt không lội nữa, dừng lại tựa vào các hòn đá hoặc là các gốc cây dưới đáy nước. Hình ảnh này nói lên trạng thái sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui, vì lúc đó an lạc thoải mái". (Tuệ Trung Thượng sĩ Ngữ lục Giảng giải, Hòa thượng Thích Thanh Từ)

[3] "Lão cổ chùy" là dùi sắt già. Trong nhà Thiền hay dùng cái đãy có cái dùi sắt ló đầu để tượng trưng cho cái thân tạm bợ hư dối có cái chân thật cứng chắc, cái chân thật cứng chắc đó dùi được tất cả những cái khác cho nên gọi là cái chùy (Trích Tuệ Trung Thượng sĩ Ngữ lục Giảng giải, Hòa thượng Thích Thanh Từ). Trong bài Thướng Phúc Đường Tiêu Dao thiền sư (2), Tuệ Trung Thượng sĩ viết: "Tạm lai tỉnh vấn cổ chuỳ thiền" (Tạm đến thăm hỏi vị Thiền sư đạo cao đức trọng).

[4] Con sấu là một biến thể của con nghê dưới thời Lý – Trần.