Kinh Thành Về Đêm (Dạ Lan Kinh Hoa)

Chương 17: Gió lửa mong khói bếp (1)



Hai vị công tử bên cạnh nhận ra phòng thứ nhà họ Hà, thấp giọng nhắc đến vở kịch diễn áp trục tối nay là “Ngư tràng kiếm” của Thất tiên sinh Hà gia, một người trong đó cười nói, nếu có thể đối diễn hai câu với Thất tiên sinh, chết cũng không tiếc. Bạn hắn kế bên giễu cợt, cậu thì biết diễn gì chứ? Vị công tử kia thủ thế, ngâm một câu: “Đời người quân tử không thuận lợi, hỡi trời xanh sao làm khổ anh hùng…” [1]

[1] Nguyên văn là “Quân tử sinh bình vận bất thông, thương thiên vi hà khốn anh hùng…” đây là lời kịch nổi tiếng trong vở “Ngư tràng kiếm”.

Hỡi trời xanh sao làm khổ anh hùng?

Cô nên vui vẻ, vì rốt cuộc anh cũng thoát khỏi lồng giam.

Ngày đó Tạ Vụ Thanh không xem hết vở diễn cuối. Hà Vị ngồi ở bàn tiệc dành cho khách quý, cách anh một tấm bình phong cùng mấy cái bàn bát tiên, có thể thấy bóng người trùng điệp lồng vào anh.

Vở diễn “Ngư tràng kiếm” vừa xướng đến đoạn danh tướng Ngũ Tử Tư thành công chạy thoát khỏi Chiêu Quan, kết bạn với một trong tứ đại thích khách, cả người điêu tàn tìm đến Ngô Vương, cuộc đời từ đó sang trang mới, chờ đến ngày báo thù rửa hận.

Cô liền nghĩ, quả là một vở kịch hay.



Mùng 2 tháng 2 “rồng ngẩng đầu” [2]

[2] Ngày 2 tháng 2 âm lịch là lễ hội mùa xuân, lễ hội nông nghiệp, lễ hội Thanh Long (hay còn gọi là ngày “rồng ngẩng đầu”), là một ngày hội truyền thống của dân gian Trung Quốc.

Ngày đó phó quan của Đặng Nguyên Sơ mang đến một cái tráp gỗ, dặn phải đưa tận tay cô hai Hà.

Vừa kết thúc giờ quốc học, cô không để ý đến người khác, vội vàng vuốt khoá đồng trên tráp, mở hộp gỗ tử đàn, nhìn thấy bên trong là một chén rượu được đúc bằng ngọc. Cái chén nho nhỏ, mỏng như vỏ trứng, đặt dưới ánh sáng sẽ phát ra vầng hào quang màu xanh ngọc.

Trong hộp có hai khoảng trống để đặt chén nhưng chỉ có một cái, chỗ còn lại là chìa khoá bằng đồng.

“Cái này không phải là dạ quang bôi [3] sao?” Đỗ lão tiên sinh khen ngợi, “Đúng là thượng phẩm trong thượng phẩm. Dạ quang bôi còn mỏng như vỏ trứng, phát quang…” Đỗ lão tiên sinh thấy mắt cô phiếm hồng, hơi ngẩn ra, cô gái trước mặt đã nước mắt lưng tròng.

[3] Là một loại chén ngọc nổi tiếng của Trung Quốc. Thành chén được mài rất mỏng, có màu xanh biếc như ngọc bích, vào buổi tối khi để dưới ánh năng sẽ phát quang rất đẹp.

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi… Mỗi một chữ đều như gợi lên tình cảnh của anh ngày đêm trong thành Bắc Kinh. Giờ chắc hẳn anh đã “tuý ngoạ sa trường” [4] chinh chiến bốn phương rồi, đây chỉ là tín vật chia tay đến muộn.

[4] Nguyên văn là “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi/Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi/Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu/Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (trích “Lương Châu từ kỳ 1” của Vương Hàn). Bản dịch nghĩa “Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly/Muốn uống nhưng đàn tỳ bà đã giục lên ngựa/Say khướt nằm ở sa trường, anh chớ cười/Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về đâu”.

Còn chìa khoá này… không cần nghĩ cũng biết, là chìa khoá trạch viện ở Bách Hoa Thâm Xử.

Mắt cô càng đỏ hơn.

Đỗ lão tiên sinh dựa vào kinh nghiệm đoán giờ này chắc hẳn mình cũng nên đi rồi, vội vàng không dám chậm trễ quay đầu bước ra.

Hà Vị nhìn chăm chú cái hộp gỗ suốt hai giờ đồng hồ, cuối cùng ôm nó đến đa bảo cách trên tường, tìm một ngăn bí mật nhất, cẩn thận đặt vào rồi khoá lại. Chìa khoá tủ nhỏ xíu không biết cất ở đâu, đành phải kê dưới đáy bình hoa mai.

Mùa hè, cuộc tuyển cử bầu tổng thống ở Bắc Kinh ngày càng náo nhiệt.

Có nhóm quân phiệt chặn tàu của cựu tổng thống, buộc đối phương phải giao ấn tổng thống cùng thư từ chức mới chịu thả người.

Ngày đó Hà Vị đến thăm thầy cũ của anh trai, thầy không khỏi cảm thán thời thế hoang đường loạn lạc, nhắc đến Tạ Vụ Thanh trước sau đều kiên định chống quân phiệt, đánh giá anh một lòng kiên trì vì quốc gia thống nhất đúng là đáng quý.

“Từ Ngu Hạ Thương Chu, mấy ngàn năm qua chúng ta trụ vững chỉ vì bốn biển quy về một mối”. Cô như thể nhìn nhận một người bạn không quá thân, nhẹ giọng đáp, “Không phải thầy cũng trụ vững sao ạ? Thầy là người chinh chiến đối ngoại, cũng vì thống nhất”.

Thầy giáo mỉm cười, lập tức hỏi cô: “Gầy đây em đi xem nhà à? Sắp có hỉ sự?”

Hiểu lầm quá lớn rồi…

Cô giải thích: “Đặng Nguyên Sơ vào kinh đã được nửa năm, gia đình cũng hối thúc mua nhà. Em chỉ muốn giúp hắn xem xét thôi ạ”.

“Người này không tồi”.

“Đúng là không tồi”, cô nghiêm túc nói, “Còn mong thầy có thể chỉ bảo thêm cho hắn chuyện công việc, hắn rất có hứng với ngoại giao”.

Từ lúc Đặng Nguyên Sơ được Bộ Ngoại giao mượn tạm, hắn ngày càng chăm chỉ hơn, dứt khoát xin chuyển qua làm việc. Hà nhị gia có nhiều mối quan hệ với người làm ngoại giao, thuận cho chuyện kinh doanh vận tải đường thuỷ, đối với ngoại giao căn cơ cũng rộng hơn so với Đặng gia. Cô muốn mượn thể diện trong nhà, tìm vị thầy giáo này nhờ cậy giúp đỡ Đặng Nguyên Sơ.

“Hậu bối tài học cao lại có lương tri, ta đều sẽ giúp đỡ”. Thầy cười đồng ý.

Ra khỏi nhà thầy, cô đến Tây Nhai Sát Hải [6], dẫn Đặng Nguyên Sơ đi xem thử mấy toà nhà.

[6] Nằm trong quần thể Thập Sát Hải, chỗ Hậu Hải và Tiền Hải nối liền gọi chung là Tây Nhai 

Cô hiểu rõ vương phủ nhà quan lớn nhỏ khắp thành Bắc Kinh, dẫn hắn đi xem hơn nửa tháng. Kinh thành rất nhanh đã có lời đồn, nói công tử Đặng gia lao tâm khổ tứ theo đuổi nay cũng nhìn thấy chút ánh sáng, cùng cô hai Hà bắt đầu dắt tay nhau đi xem nhà… Khó trách đến thầy giáo của anh trai cô cũng thắc mắc.

“Tại sao mấy toà nhà đó phải chen chúc ở Thập Sát Hải này?” Đặng Nguyên Sơ khó hiểu.

Cô cười giải thích: “Những nhóm vương gia trước kia đa phần đều giữ chức quan nhàn tản, chuyện quan trọng nhất mỗi ngày của họ chính là lên triều gặp mặt, ở xa ngại phiền phức nên chọn luôn chỗ này. Lưng tựa biển Tây Nhai, phong cảnh đẹp”.

Hà Vị cùng Đặng Nguyên Sơ đi một hồi thấm mệt, không ngại chỗ sơ sài, hai con người phú quý tìm đến một cái sạp có mái che nắng, bao trọn toàn bộ, ngay cả những phó quan và cô hầu đi theo cũng đãi trà lạnh và bánh mơ chua, cùng nhau ngồi hóng mát.

Người của họ đứng bên ngoài canh chừng, tiện cho họ nói chuyện.

Cô phẩy quạt, lười nhác nói: “Nếu anh không vội mua nhà có thể chờ Cung Vương Phủ, nghe bảo họ muốn bán”.

“Căn nhà định giá hơn 40 vạn, tôi không thể xuống tay được”, Đặng Nguyên Sơ cười nói, “Người anh lớn kia của tôi nếu không đốt trụi toàn bộ nha phiến sống ở Quảng Tây, có khi cũng đủ mua được Cung Vương Phủ”. 

Cây quạt lắc lư trên tay Hà Vị đột ngột dừng lại.

“Xin lỗi, khơi lại tâm sự của cô”. Đặng Nguyên Sơ thành tâm nhận lỗi.

Cô lắc đầu nói: “Tôi rất vui nếu anh nói về anh ấy, tốt nhất là nói nhiều một chút, cũng để tôi hiểu được nhiều chuyện của anh ấy hơn”.

Cô nhẹ giọng quan tâm hỏi: “Sống ở đây quen chưa?”

“Nói thẳng ra, không quen lắm”, Đặng Nguyên Sơ cười khổ nói, “Kỳ thật tôi muốn cùng anh Thanh xuống phương Nam. Nhưng anh ấy nói cũng không cần tất cả mọi người đều phải xung phong ra chiến trường giết giặc. Anh ấy bảo tôi không cần xuôi Nam làm gì, cứ ở lại Bắc Kinh. Bộ Ngoại giao đặt tại Bắc Kinh được bên ngoài công nhận, lãnh sự quán ở đây cũng nhiều hơn, có thể làm chút chuyện có ích cho đất nước”. 

“Bộ Ngoại giao thật đang cần người”, cô lại ân cần hỏi, “Nghe thầy của anh tôi nói, gần đây anh đang đàm phán cùng Nhật Bản, muốn lấy lại Lữ Thuận cùng Đại Liên đúng không?”

Đặng Nguyên Sơ gật đầu, khẽ thở dài nói: “Anh Thanh ở tiền tuyến hăng hái tắm máu chiến đấu, mà tôi lại chẳng nên trò trống gì”.

Lần nào các nhà ngoại giao cũng chịu áp lực rất lớn.

Có điều mấy tháng này, người dân khắp nơi tẩy chay hàng hoá Nhật Bản, thực hành cắt đứt quan hệ kinh tế với bên ngoài nhằm hỗ trợ Bộ Ngoại giao. Cả nước trên dưới một lòng.

Cô thấp giọng an ủi Đặng Nguyên Sơ: “Sẽ tốt thôi”.

Gió nóng thổi oi bức, làm mặt hồ gợn sóng.

Cô nhìn mặt hồ, lại nhớ đến Tạ Vụ Thanh ở phương Nam, nhưng không biết anh ở chỗ nào của phương Nam.

“Lúc trước anh ấy nói nhất định phải đi, đã xảy ra chuyện gì sao?” Cô càng muốn biết nhiều chuyện hơn, phần nào cũng hiểu được chiến sự ở phương Nam.

Hà Vị sống trong chính quyền của Bắc Kinh, đối với chính phủ Quảng Đông hiểu biết có hạn. Ngày thường nghe người ta kể đã là chuyện đã rồi, tình hình ở phương Nam rốt cuộc như thế nào, e rằng chỉ có thể hỏi người tài giỏi như Đặng Nguyên Sơ mới rõ.

Đặng Nguyên Sơ đè thấp giọng nói: “Tình hình bên kia phức tạp, muốn kể thì phải bắt đầu từ năm ngoái”.

Cô cầu còn không được.

Đặng Nguyên Sơ nói tiếp: “Năm ngoái có kẻ phát động nổi dậy, cướp thành Quảng Châu. Lúc đó anh Thanh bị thương nặng chưa khỏi, đành bất lực, đợi đến khi có thể xuống giường thì đã chạy đến Bắc Kinh rồi”.

Hà Vị khẽ gật đầu.

“Cô cả Tạ gia là người ủng hộ chủ nghĩa cộng sản, một mực vì chuyện của Tôn tiên sinh hợp tác với Liên Xô mà bôn ba. Anh Thanh đến Bắc Kinh, một phần vì cô tư Tạ, một phần cũng vì Bắc Kinh cách Liên Xô gần hơn. Nếu có yêu cầu khẩn cấp, anh có thể trực tiếp sang đó. Trước đây anh ấy từng sống ở Liên Xô một thời gian, cũng quen thuộc”.

Khó trách lần đầu gặp mặt ở Bách Hoa Thâm Xử, anh nhắc đến chuyện công sứ Nga, hơn nữa còn rất rõ tình cảnh bên kia.

“Không lâu sau, cô cả Tạ gia xảy ra chuyện, ban đầu cô ấy định lên phía Bắc để sang Liên Xô, rất nhiều người có ý không muốn cô ấy sống sót’.

Sau đó Tạ Vụ Thanh bị giam một tháng.

“Sau nhiều thăng trầm, chuyện của cô cả cũng xong”, Đặng Nguyên Sơ nhớ lại, “Đến gần Tết năm nay, Việt – Điền – Quế, ba quân cùng lúc phát binh muốn công thành để đoạt lại Quảng Châu. Lúc đó anh Thanh không thể không đi, tiền tuyến cần anh ấy”.

Cuối cùng hắn chốt lại: “AnhThanh nôn nóng muốn đi cũng vì một nguyên nhân khác. Anh ấy cấm nha phiến trong Nam nhiều năm, cũng hiểu rõ tính tình của những phe phái quân phiệt lớn nhỏ, căn bản không tin tưởng bọn họ”.

Không ngoài dự đoán, sau khi những đội quân đó đoạt lại thành Quảng Châu, liền gấp đến độ không chờ nổi mà phân chia thành quả thắng lợi, tại nơi mình đóng quân cưỡng ép đánh thuế, mở bán thuốc lá cùng sòng bạc, tuỳ ý đề cử người của mình làm quan địa phương. Bắt đầu một vòng cát cứ mới.

Tháng 3, Thẩm tướng quân của Quế quân tạo phản.

Tháng 4, Dương tướng quân của Điền quân nổi dậy. [7]

[7] Chỗ này có nhiều chi tiết sự kiện lịch sử mà nếu giải thích ra sẽ rất dài. Nên mọi người hiểu đại khái là tháng 3/1923, Thẩm Hồng Anh của Quế quân tạo phản, nhận lệnh chính phủ Bắc Kinh tấn công vào Quảng Châu. Tháng 4/1923, Dương Hi Mân của Điền quân nhận lệnh của Tôn Trung Sơn phản kích lại quân Thẩm Hồng Anh (Nguồn Baidu)



Chiến sự phương Nam bùng nổ.

Dường như không có hồi kết

Dứt lời, hai người đột nhiên không còn gì để nói, trong lòng đều lo lắng cho Tạ Vụ Thanh.

Đặng Nguyên Sơ quen biết cô nửa năm, thường xuyên qua lại nên lúc nói chuyện cũng tự nhiên thoải mái hơn. Hà Vị ít tuổi hơn hắn nhiều, hắn luôn xem cô như em gái nhỏ: “Cô và anh Thanh quen biết thế nào?”

“Một lần ngoài ý muốn”, cô đối với Đặng Nguyên Sơ cũng giống như đối với bạn học của anh trai, bởi vì có thêm một Tạ Vụ Thanh nên cũng thân thiết hơn một chút, “Tôi và anh ấy gặp nhau rất ít, ở Bách Hoa Thâm Xử ba lần. Anh ấy đến nhà tôi hai lần”.

Lần đầu tiên còn đi cùng Bạch Cẩn Hành.

“Không biết anh tin không, nhưng bất kỳ cô gái nào có tin đồn yêu đương với anh ấy, cũng đều được gặp anh ấy nhiều hơn tôi”. Cô nói.

Đặng Nguyên Sơ cười: “Anh Thanh chưa bao giờ kể chuyện của mình. Lúc trước anh ấy nói, có một người từng cứu mạng anh em kết nghĩa của mình nên muốn giao lại cho tôi, khiến tôi vô cùng kinh ngạc”.

Đặng Nguyên Sơ châm một điếu thuốc, chậm rãi rít hai hơi, nhàn nhạt phun ra vòng khói trắng. Hắn theo thói quen tìm gạt tàn, chợt nhận ra chỗ này là một sạp nhỏ nên khẽ búng tàn thuốc xuống đất, lại có chút ngượng ngùng phải dùng đất bùn che đi.

Hà Vị nhìn chằm chằm chỗ bụi đất rơi tứ tung dưới chân, nhớ đến trên đa bảo cách trong Bách Hoa Thâm Xử cũng có một cái đĩa đựng thuốc lá và que diêm. Cô đoán chắc Tạ Vụ Thanh cũng hút thuốc, nhưng chưa từng gặp qua. Những gì cô thật sự biết về anh cũng không quá cái tên Tạ Vụ Thanh. Thích ăn gì, thích màu nào, thích ngủ bao lâu, tỉnh lại khi nào, lúc trước còn học ở trường Bảo Định thì thích môn học gì… Ngoại trừ bộ quân phục cùng âu phục màu lam kia, ngày thường anh còn thích mặc gì không…

Anh đến như một giấc mơ.

Giúp cô giải quyết khó khăn một lần, lại cùng cô trải qua sinh nhật tuổi mười tám, rồi từ Cung Vương Phủ mờ mịt mà biến mất.

“Chỉ vừa mới quen biết, anh ấy đã đi rồi”, cô cúi đầu cười nói, “Chúng tôi chưa từng ở bên nhau”.

Đặng Nguyên Sơ bất ngờ, nghe xong lời này cũng không chắc lắm về mối quan hệ giữa hai người, chỉ có thể an ủi một câu: “Thời đại này có thể sống sót quen biết một lần, đã là duyên phận lớn lao”.

Đúng là vậy. Ở phương diện này cô cũng có cảm nhận sâu sắc, hai tháng qua mỗi lần ra ngoài xả giao, luôn có người nói muốn giới thiệu cho cô hai quen một vị quý nhân lớn, nhưng sau đó gặp mặt nếu không phải trở thành nghèo túng thì cũng là tin tức báo tử.

“Phương Nam sẽ ổn chứ?” Cô không nhịn được hỏi.

Mỗi tháng Tạ Vụ Thanh đều nghĩ cách báo bình an. Tháng này tin tức chậm chạp còn chưa tới, cô không thể yên lòng.

Đặng Nguyên Sơ trầm ngâm hồi lâu, nhẹ giọng nói: “Sẽ ổn thôi”.

Nói xong, hai người cùng cười. Đây không phải là lời cô vừa dùng để an ủi hắn sao.



Quảng Đông vào hè, không khí oi bức khó chịu.

Trong một ngôi nhà lớn hoang tàn, những người đóng quân từ trên chiến trường rút về. Chỗ này nằm trong vùng hẻo lánh, cách thành Quảng Châu rất xa, vì chiến loạn nên chủ nhà đã bỏ đi từ lâu, người giữ lại trông nhà cũng chạy mất.

Tạ Vụ Thanh đêm khuya dẫn người đến đây, vì có nhiều thương binh, mà lương thảo chu cấp không đủ, không cách nào hành quân tiếp được, đành phải tạm thời ở đây vài ngày. Lúc mới đến, trong sân viện cỏ dại mọc quá đầu gối, sắp xếp dọn dẹp một chút là có thể ở được. Buổi trưa, tiểu binh nấu cho anh một bát cháo cùng với hai cái bánh bao thịt, anh không ăn bánh bao nên chỉ nhận cháo.

Vì trong quân của đội bạn xảy ra phản loạn, đây là một chi đội bị tách ra, Tạ tướng quân một mình mang theo bọn họ giết đến ngoài vòng vây, mở ra một đường máu, chạy đến chỗ này. Bên cạnh anh không có lấy một lão cán bộ đi theo… Mọi người đều lo lắng cho thân thể anh, nhưng không biết làm sao khuyên anh ăn uống giữ sức.

Tạ Vụ Thanh uống cháo, tay lật xem quyển tạp chí “Tân Thanh Niên” lấy về từ một doanh trại địch phát hành hồi tháng 6, lật giở vài trang, liền thấy Cù Thu Bạch tiên sinh đăng lời bài hát “Quốc tế ca”.

Bên ngoài có rất nhiều binh lính đều vì nghe danh Tạ tướng quân mà đến nương nhờ, đủ mọi loại xuất thân, có một người đọc sách được anh đề bạt làm tham mưu, giờ phút này người đọc sách đang ngồi xổm trong sân, dưới mái hiên sửa sang lại quân báo, vừa ôm tới nhìn thấy quyển tạp chí thì cười: “Cái này em xem rồi, có điều em không biết hát nên không hiểu nhạc phổ”.

Anh hớp ngụm cháo loãng: “Ngày khác dạy cậu”.

“Tướng quân biết xem nhạc phổ à?” Người đọc sách kinh ngạc.

Tạ Vụ Thanh cười cười: “Không biết xem nhạc phổ, sao có thể đàn dương cầm?”

“Tướng quân còn biết đàn dương cầm hả?” Tròng mắt người đọc sách trợn trắng muốn rớt ra.

“Học ở Nga”.

Người đọc sách không biết đáp thế nào.

Nghe danh vị tướng quân này là người thiện chiến lại cố chấp với việc cấm hút nha phiến, chưa từng liên tưởng anh với một quốc gia xa xôi bên ngoài. Cả nửa ngày sau mới nhẹ hỏi: “Thật là từng đến đó ạ?”

Anh lại cười, đùa giỡn nói: “Đến trong mơ”.

Người đọc sách lúc này mới cảm thấy hợp lẽ, ôm theo chồng quân báo đi vào.

Đồ ăn buổi tối đã dùng xong.

Tạ Vụ Thanh không ăn cơm, anh xách súng, mang theo mấy tay xạ thủ tốt nhất ra ngoài. Từ nhỏ ở nhà anh đã thích vào rừng săn thú, bách phát bách trúng, đáng tiếc chỗ này quanh năm chiến hoả, rừng cũng bị đốt mấy lần, không bắt được gì ra trò, quay về chia phần cũng không đủ nhét kẽ răng. Có hai thương binh không vượt qua được, sau nửa đêm ra đi, anh sai người nhân lúc đêm khuya mang thi hài an táng ở ngoài, dặn kỹ phải đào hố thật sâu, tránh để dã thú đánh hơi rồi bới lên.

Tiễn người xong, hai nữ hộ sĩ ngồi trong sân viện, vì người chết đau lòng rơi nước mắt.

Hai người họ tuổi cũng không còn nhỏ, một người sau khi chồng chết bị nhà chồng bán mà chạy trốn, một người khác sau khi kết hôn bị bạo hành không chịu nổi nên bỏ chạy. Trong thời buổi loạn lạc, chạy trốn đến đâu còn không biết, chỉ sợ vừa ra khỏi động hổ đã rơi vào miệng sói, nghe đồn Tạ tướng quân cấm hút nha phiến, chỉ dựa vào sự ngưỡng mộ kết luận anh là người tốt, chính là kiểu tướng quân mang theo nghĩa lớn mà mấy vở kịch thường hát.

Ban đầu Tạ Vụ Thanh không chịu nhận, sợ các cô đi theo quân gặp nguy hiểm, hơn nữa gần đây tình hình chiến sự quá thảm thiết, càng sợ các cô bị đám súc sinh bắt được. Sau đó Lâm Kiêu khuyên anh, nếu bỏ họ lại cũng chết, anh mới gật đầu chấp nhận, chuẩn bị sau khi về Quảng Châu sẽ sắp xếp các cô ở lại trong thành.

“Không còn lương thực”, anh ngồi xuống ngưỡng cửa, bình tĩnh nói, “Khóc nhiều phí sức, đến lúc đó không có cơm ăn lại gắng gượng không nổi”.

Hai cô ấy vốn quen với chuyện sống chết, cũng không muốn khóc, có điều một trong hai người nhìn thấy thương binh vừa qua đời liền nhớ đến em trai đã chết của mình, người kia bị nhiễm nên chưa nói hết câu cũng rơi nước mắt.

Tạ Vụ Thanh ngày thường không nhiều lời, không vui không giận khiến người ta sinh lòng kính sợ, giờ phút này anh vừa nói xong khiến nước mắt hai cô đều dừng lại.

“Tôi chỉ nhớ đến em trai”, một người trong đó nói, “Người vừa rồi được đưa đi bằng tuổi với nó, đều chỉ mới hai mươi tám tuổi”.

Tạ Vụ Thanh không nói gì. Anh cũng hai mươi tám tuổi, chuyện này chỉ người thân thiết mới biết.

“Tướng quân còn người nhà không?”

“Có mấy người”. Tạ Vụ Thanh đáp.

“Có phu nhân chưa?” Người lớn tuổi hỏi.

“Là vợ, hiện tại gọi là vợ”. Một người khác sửa lại.

Tạ Vụ Thanh cười, không trả lời.

“Nói một chút đi”, người lớn tuổi nói, “Mọi người đều là sống hôm nay không biết chuyện ngày mai, cũng như ngài nói, chẳng may lương thực không đủ, chúng ta chịu không nổi chết đói, nói còn chưa nói xong, xem có thảm hay không”.

Tạ Vụ Thanh bị lời này chọc cười. Cô ta nói chuyện thẳng thắn, ngược lại có vài phần giống Hà Vị.

Anh trấn an họ: “Tôi có đói chết cũng không để mọi người chết”.

“Lời này chúng tôi đều tin”. Người lớn tuổi nói.

Trong đầu anh đang nghĩ đến chỗ có thể tìm thấy lương thực. Nơi này chỉ có vài trăm người, còn có mấy chục thương binh, làm cách nào mới vượt qua được nguy hiểm để tập hợp cùng bộ đội chủ lực? Cũng là một vấn đề nan giải.

“Tướng quân nhớ vợ mình à?” Người trẻ hơn lại hỏi.

“Không phải vợ”, anh thuận miệng đáp, “Là bạn gái”.

Nói xong liền nhận ra mình nhiều lời rồi.

Đây là từ mới đang thịnh hành, hai nữ hộ sĩ ngẫm nghĩ một lát, cùng ăn ý cho là anh nói đến “vị hôn thê”.

“Cha mẹ ước định? Có từng gặp qua chưa? Ít nhất cũng phải thấy trong ảnh rồi đúng không?”

Anh nhẹ giọng trả lời: “Có gặp qua vài lần”. Đếm trên đầu ngón tay.

“Trước khi kết hôn ở quê tướng quân cho gặp mặt sao? Thật tốt quá, ít nhất cũng được nhìn thấy bộ dáng của đối phương”, người lớn tuổi hơn cười nói, “Tôi đều là trực tiếp gả đi, người chỗ tôi không cho gặp”.

Một người khác cười: “Có ai mà không thế. Trước gả nghe theo lời cha mẹ, chỉ cần cha mẹ định hôn ước thì cũng xong xuôi”.

Anh lắc đầu: “Không phải do cha mẹ định, là do tự mình định”.

Tự mình quyết định chuyện chung thân?

Hai nữ hộ sĩ cảm thấy như nghe một vở kịch.

“Sau lần đầu gặp, cô ấy giúp người nhà tôi, không đến mấy ngày, lại ra tay tương trợ người anh kết nghĩa của tôi”, Tạ Vụ Thanh nhớ lại kể, “Khi đó liền quyết định. Sau này tôi bị bắt giam, vừa thả ra ngoài, cô ấy liền tới thăm tôi”.

Hai tháng làm con tin ở Bắc Kinh, bị ám sát mấy lần, người thân qua đời, một tháng bắt giam.

Ngoại trừ những người từng vào sinh ra tử, những kẻ mới quen khi đó ngoài mặt thì nói lời ngon ngọt, bên trong lại lo sợ dính dáng với anh, chỉ có Hà Vị thật lòng không giả dối.

Anh lớn kết nghĩa gặp nạn, anh tuy đã gửi gắm cho Hà Vị nhưng cũng biết rõ cô không có khả năng giúp đỡ, có điều nghĩ đến trong tay cô nắm quyền vận tải đường thuỷ, ít ra cũng có chút cơ may. Không ngờ ngày đó ở nhà ga, những thế lực lớn nhỏ đều án binh bất động, chỉ có mỗi mình cô gái trẻ là cô chịu ra tay.

Ngày đó anh từng hứa “lấy mạng báo đáp” không phải nói suông.

Chỉ là ở phương diện này, Vị Vị luôn chậm chạp, trước sau vẫn như lọt vào sương mù. Đưa thư tặng hải đường, cùng ăn cơm, lại đến quán điểm tâm bánh ngọt, chúc mừng sinh nhật, ôm cũng ôm rồi, hôn môi cũng đã hôn… Tình yêu kiểu mới này từ đầu chí cuối giống như chỉ có mỗi anh là nôn nóng.

Nhìn là vậy, thôi thì cứ giống như chú cùng anh chị trong nhà lại ổn thoả hơn, hai bên gặp qua ảnh chụp, thư từ trao đổi về lý tưởng cùng niềm tin của gia đình tương lai, sau đó lại quyết định ngày kết hôn đơn giản như thế. Cũng sẽ không có chuyện chưa định ngày hôn ước, lại cùng với con gái nhà lành chưa xuất giá ở chung trong một gian phòng nhỏ, da thịt kề cận. Là anh đã vô tâm.

Có điều những gì nên làm để cứu vãn anh đều làm cả rồi, ít nhất Tạ gia nơi này không còn nghi ngờ gì nữa, đã xem cô là nàng dâu sắp vào cửa.



Vị Vị ngược lại thật sự thích mấy chuyện thân thiết thế này, anh có thể nhìn ra được. Không chỉ thích mà còn cảm thấy rất tốt nữa.

Hiện tại các trường đại học công lập đều đã bắt đầu thi hành chính sách cho nam nữ học chung với nhau, quan hệ giữa nam nữ thay đổi, xã hội cũng tiến bộ hơn.

Tình yêu trước hôn nhân là điều cần thiết, phải tôn trọng sự phát triển của thời đại mới.

Tạ Vụ Thanh đột nhiên nghĩ đến gần đây có một vị tiểu tư lệnh nhát gan, sẵn tiện nảy ra kế hay, quyết định tập kích bất ngờ một phen, đợi lấy được lương thực rồi nói tiếp.

Anh đứng dậy: “Chiến trường tàn khốc, thương binh so với binh lính bình thường yếu ớt hơn, cảm xúc của các cô sẽ ảnh hưởng đến tâm lý bọn họ, nên suy nghĩ tích cực lên. Giờ phút này, tại nơi đây, hai người các cô là chúa cứu thế của những thương binh khác, người bên trong cần nhờ vả hai cô nhiều”.

Hai nữ hộ sĩ thu lại ý cười, đứng bật dậy, học theo những binh lính kia hành quân lễ.

Tạ Vụ Thanh hành lễ đáp lại rồi bỏ đi.

Trước khi tập kích bất ngờ, anh về phòng nghỉ ngơi hai mươi phút.

Nóng thật sự, nhưng anh không thích cởi quần quân đội và áo sơ mi của mình, luôn giữ trang phục chỉnh tề là thói quen từ nhỏ. Anh cuộn đệm chăn trên giường đọc sách, ngửa mặt nằm lên ván giường, nhắm mắt dưỡng thần.

Tạ Vụ Thanh nhớ đến trong sảnh The Times tại khách sạn Lợi Thuận Đức ở Thiên Tân, anh đã dùng đàn dương cầm của Hamilton tấu lên khúc Habanera, trí nhớ của anh quá tốt, những chuyện lớn nhỏ từ sau anh ba tuổi đều như khắc sâu trong đầu. Đối với Hà Vị, anh chưa hiểu rõ, ngoại trừ biết cô thích uống sữa bò, thích diện đồ màu trắng, không thích mặc nhiều áo. Trước kia, anh muốn chiến sự mau kết thúc, chỉ vì lo nghĩ cho người khác, hiện tại rốt cuộc cũng có chấp niệm của riêng mình, anh muốn đất nước nam bắc thống nhất, để anh có thể trở lại Bắc Kinh.

Nếu cô còn chờ anh, anh sẽ cẩn thận tỉ mỉ nói chuyện yêu đương kiểu mới với cô.



Giải thích về vở “Ngư tràng kiếm”: Ngày xưa Thái tử của Sở Bình Vương cưới được một cô gái rất xinh đẹp, bị Sở Bình Vương nhìn trúng, muốn đoạt về làm vợ mình. Sợ bị mọi người phản đối nên Sở Bình Vương ra tay giết Sư phó bên cạnh Thái Tử là Ngũ Xa cùng người con lớn của Ngũ Xa và Ngũ Thượng. Con trai út Ngũ Tử Tư đã chạy trốn đến cửa ải Chiêu Quan, thề sẽ sống sót báo thù cho cha anh. Nhưng nhiều ngày không thoát thể thoát khỏi Chiêu Quan do canh gác quá chặt. Sau nhiều đêm dằn vặt khiến Ngũ Tử Tư tóc bạc trắng, lúc này nhìn ông khác với hình ảnh truy nã trên cổng thành nên mới thành công thoát thân. Nhưng không bao lâu liền bị truy binh đuổi theo, ông may mắn được một ngư phủ giúp đỡ, muốn dùng bảo kiếm đáp đền nhưng người ngư phủ kia từ chối. Cuối cùng Ngũ Tử Tư đầu quân cho Ngô Vương, giúp Ngô Vương xây dựng quân đội, sau này xuất binh đánh Sở, báo thù cho người thân.

— HẾT CHƯƠNG 17 —