Kinh Thành Về Đêm (Dạ Lan Kinh Hoa)

Chương 29: Đêm tuyết soi chiếu kinh hoa (2)



Nói một hồi lại nhắc đến chuyện này.

“Trời tối thì phải ngủ”, cô buông anh ra, “Không ngủ, còn muốn làm gì”.

Tạ Vụ Thanh nhẹ nhướng mày, lúc cô định đứng dậy thì lần nữa giữ chặt eo cô: “Cũng không phải không thể làm gì”.

Anh xã giao cả buổi chiều, thưởng trà xong thì uống rượu, ngửi được là trà hoa nhài. Lẫn trong mùi hoa nhài… Cô cẩn thận hít vào, chủ nhân vì tiếp đãi riêng anh đã chuẩn bị cả rượu ủ của người Kiềm. Ngửi kỹ một chút, là rượu nóng Mao Đài ở Nhân Hoài [1].

[1] Nhân Hoài là một thành phố thuộc Tuân Nghĩa, tỉnh Quý Châu; là nơi nổi tiếng sản xuất rượu Mao Đài vang danh của TQ

Tạ Vụ Thanh ôm người cô, để mặc cô hít hà mùi rượu trên mặt mình.

Cô bất giác nghĩ, lo sợ anh bày ra bộ dáng thế này trong đống phấn son, diện mạo như ngọc lạnh, vẻ say càng thêm đậm, khiến người ta nảy sinh ý muốn được anh ôm vào lòng, được anh hôn một cái, nhưng anh vĩnh viễn lúc gần lúc xa, chỉ giữ lại duy nhất dáng vẻ này.

Hà Vị giúp anh chỉnh lại cổ áo quân phục, mở nắp bình rượu ra, từ tốn đổ trà hoa quế vào rượu Mao Đài: “Rượu ngon Quý Châu ủ trước nay nổi tiếng, tướng quân là người lớn lên từ trong rượu tốt, không sợ anh say. Có điều hôm nay trên người anh bị thương, vẫn nên pha một chút nước vào rượu thì hơn”.

Thả chén trà về chỗ cũ, Tạ Vụ Thanh vẫn siết chặt cô.

Hai người nhớ đến mảnh tối tăm trong rèm giường đêm qua, diễn ra một màn hoang đường. Anh ôm cô, lột sạch váy áo từ trên xuống dưới của cô, mà quần áo anh cũng rải rác dưới gầm giường, chỉ sợ cô sẽ mang thai, làm gì cũng thu lại một bước cuối. Cô nhìn cằm anh, xuống dưới là xương quai xanh, nghĩ đến thắt lưng cùng cơ thể anh. Thân mật đến mức độ này, bất quá cũng giống như vợ chồng rồi.

Tạ Vụ Thanh muốn hôn cô, nhìn thấy màu son trên môi cô, lại sợ lúc ra ngoài người ta phát hiện son môi bị ăn hết. Nên không động đậy nữa.

Trong tiếng trêu đùa ầm ĩ bên ngoài, anh cười nói với cô: “Khanh khanh giai nhân, thật khiến người khác hiểu lầm”.

Cuối cùng anh buông tay: “Đi thôi”.

Tạ Vụ Thanh cùng Hà Vị mở cửa. Tốp người đứng gần trong trà lâu nhìn thấy cô hai Hà bước ra khỏi phòng riêng của Tạ Vụ Thanh, y phục tươm tất, tóc tai không rối, son môi vẫn còn nguyên. Mọi người nghĩ, cô hai Hà ấy vậy mà tuổi trẻ có bản lĩnh độc đáo, làm người khác không thể chạm vào một đầu ngón tay, lại có thể khiến vị thiếu tướng quân công lao trăm trận phải đầu hàng.

Tạ Vụ Thanh lúc nào cũng vui vẻ giúp cô có được tiếng thơm.

Chuyện của anh ở Kinh Tân luôn được người người chú ý, mà cô gái nhà Hà nhị gia khiến anh khó quên lại là một truyền kỳ.

Chờ khách đi vào, cô mới hỏi Lâm Kiêu, chuyện đêm qua anh bị tập kích đến tột cùng xảy ra thế nào? Lâm Kiêu áy náy xin lỗi, nói không bảo vệ tốt cho tướng quân. Tối qua sau khi Hà Vị rời khỏi Bách Hoa Thâm Xử, thiếu tướng quân liền quay về khách sạn Bắc Kinh, cùng đến khách sạn còn có một vị tướng quân khác cùng hai vị đại biểu đến kinh thành chuẩn bị cho Hội nghị Quốc dân. Vết thương trên người Tạ Vụ Thanh là vì anh bảo vệ cho hai vị đại biểu một nam một nữ ấy. Thế mạnh của anh từ khi còn ở trường quân sự chính là tiết học ám sát, đầu tiên phát hiện mai phục, lập tức đẩy một người ra, người còn lại vì không kịp cảnh báo nên chỉ có thể dùng cơ thể ngăn cản.

Tạ Vụ Thanh an ủi đám người Lâm Kiêu, nói là do bản thân sơ suất.

Tất cả mọi người đều hiểu, hai vị tướng quân đến cùng một chỗ mang theo cả trăm người, trong Tứ Cửu Thành bị quân phiệt khống chế muốn bảo vệ mình khó khăn thế nào, căn bản không phải do sơ suất của các tướng lĩnh, mà vì bọn họ đều đang ở trong miệng hùm răng sói.

Lâm Kiêu càng nói càng lo lắng, cuối cùng biến thành Hà Vị trấn an ngược lại hắn.

Cô thầm hối hận vì đã hỏi, sợ Lâm Kiêu xem cô như đang “trách cứ” hắn, vì thế tháo khuyên tai hồng ngọc bên kia xuống, dẫn dắt sự chú ý của hắn đến đề tài khác: “Anh cầm lấy khuyên tai này, sau đó giống lúc trước, đưa vào một lần nữa đi”.

Dứt lời, cô lại ôn nhu nói: “Uống rượu còn nói nhiều như thế sẽ hại thân, trước khi anh ấy đến Quảng Đức Lâu, dù sao cũng phải tìm cơ hội ăn hai miếng cơm. Lát nữa tôi đến Thái Phong Lâu đặt phòng riêng, cần anh giúp đỡ ‘cứu’ anh ấy tới đó dùng cơm chiều”.

Lâm Kiêu lập tức nhận lấy: “Ti chức nhất định làm được”.

Hà Vị để Lâm Kiêu đi, trở về bàn trà của mình.

Chúc tiên sinh vừa rồi còn ở trong phòng nay đã thay một bộ âu phục màu be, đang chờ ở nơi đó.

Lại kể đến, hai người quen biết nhau chính là trong Cung Vương Phủ, ngày đó Tạ Vụ Thanh vừa đi, trong lòng cô vô cùng đau khổ, liền đến hành lang ngắm nhìn phong cảnh trong sân. Cô vốn không biết Cung Vương Phủ có quy định, phàm là khách ngoài sẽ từ bên cạnh núi giả đi thẳng đến rạp hát, còn hành lang chỉ dùng cho người trong phủ cùng khách quý qua lại, không có Tạ Vụ Thanh dẫn đường, người trong phủ nhác thấy một vị tiểu thư lạ mặt đứng trong hành lang, liền muốn đến gần khuyên cô rời đi, không ngờ bị Chúc tiên sinh này ngăn lại.

“Vị này là người nhà của Hà Thất tiên sinh”. Chúc Khiêm Hoài lúc đó đã giải thích với người của Cung Vương Phủ như thế.

Thoáng cái hai năm qua đi, Chúc tiên sinh không thay đổi chút nào, người đàn ông sau khi tẩy trang mang dáng dấp thư sinh cùng khuôn mặt phù dung [2], vừa ngồi xuống cạnh bàn liền khiến người ta không ngừng từ xa nhìn lại. Đẹp thì có đẹp nhưng vẫn giữ thái độ nho nhã hữu lễ, duy trì bản sắc vốn có của người đàn ông.

[2] “Mặt phù dung” hay “phù dung diện” là một cách nói để khen ngợi nhan sắc đẹp mỹ miều, dụ hoặc.

“Tiếp theo tiên sinh muốn đến nơi nào?” Cô cũng ngồi xuống.

“Quảng Đức Lâu”, Chúc tiên sinh cười đáp, “Vẫn là tiệc của thương hội Thượng Hải. Vừa nãy cảm ơn cô hai đã giải vây giúp tôi”.

Giải vây? Cô mỉm cười: “Vừa rồi tiên sinh bị gây khó dễ ư?”

“Cũng không phải gây khó dễ, chỉ là thân mang trọng trách, muốn lôi kéo vị thiếu tướng quân Tạ gia kia. Tôi vốn định giở một chút công phu qua loa bên ngoài, cô hai đây vừa đến, cũng tiết kiệm được chút công phu gì đó”.

Hà Vị rót trà cho Chúc tiên sinh: “Anh ấy không dễ lôi kéo, công lao trăm trận, rất kiêu ngạo. Lần trước ở Thiên Tân, có hai người thuộc hoàng thất Tốn Thanh đến nói hai câu cầu xin anh ấy giúp đỡ, anh ấy không chịu nhưng không đáp gì, còn bảo người ta giúp mình hỏi người Nhật Bản để đòi lại Lữ Thuận và Đại Liên”.

Chúc tiên sinh bất ngờ: “Là một tướng quân như vậy sao?”

“Chúc tiên sinh nghĩ rằng, anh ấy là tướng quân thế nào?”

“Tôi với vị tướng quân này không biết nhiều lắm, chỉ nghe kể hắn mười mấy tuổi đã ‘giết người thủ đoạn ôm lòng cứu nước’, đáng tiếc từ khi hắn nắm giữ binh quyền liền đánh mất ý định ban đầu, dùng kế giả chết, mang trọng binh tới Vân Quý, chín năm đằng đẵng không chịu xuất hiện, càng không muốn xuất binh vì dân. Lần trước quay về kinh, chuyện phong lưu của hắn cũng không ít, mà ngày nay ra bắc”, Chúc tiên sinh nhẹ giọng, “Thái độ với tình cảnh hai miền bắc nam càng mập mờ, mang lập trường đứng núi xem hổ đấu”.

Đầu tiên cô ngạc nhiên, nghĩ lại, quả thật Tạ Vụ Thanh hiếm khi lộ diện một lần, lúc trước xuất hiện lại ra vào động son phấn, lần này đến chỉ trong ‘y hương tấn ảnh’ mới gặp được anh, khó trách người khác hiểu lầm.

Cô giống như nhìn thấy bản thân trong mấy lời đồn trên phố, không nhịn được bật cười: “Nhưng hôm qua ở sân ga, vẫn có không ít văn nhân cùng học sinh tiến bộ đến đón tiếp anh ấy, sẵn lòng tin tưởng anh ấy”.

Chúc tiên sinh mỉm cười không tranh cãi, vẻ mặt giống như nói: Đó là vì Tạ Vụ Thanh thành danh từ thuở thiếu thời, mà nay Tạ Vụ Thanh đã không còn như thế. Chúc tiên sinh ngày thường tiếp xúc với quân phiệt cùng không ít nhân vật tiếng tăm, lời nói của hắn cũng là sự hiểu biết của đám người đó với Tạ Vụ Thanh, cũng không trách được Chúc tiên sinh hiểu lầm, đây chính là ảo tưởng mà Tạ Vụ Thanh cố tình phơi bày ra ngoài.

Hà Vị không giải thích nhiều, chỉ cười cười.

“Có điều đối với một vị Tạ tướng quân khác ở phương Nam, Chúc mỗ thật lòng ngưỡng mộ”. Chúc tiên lại nói.

Tạ sao? Không lẽ là Tạ Khanh Hoài?

“Vị tướng quân đó tên Tạ Khanh Hoài, không xu nịnh quyền thế, không say đắm thanh sắc, càng không hô hào công danh”, Chúc tiên sinh vô cùng thưởng thức, “Đáng tiếc hắn không rời phương Nam, nếu có một ngày tôi đến Hồng Kông biểu diễn, ngược lại muốn đến bái phỏng hắn một lần”.

Hà Vị cố nén cười, tay nâng chén trà nhấp một ngụm.

“Tôi nói sai gì sao?” Chúc tiên sinh cảm giác được cô buồn cười.

Cô dịu giọng nói: “Hai vị tướng quân này đều là bạn của nhau. Chúc tiên sinh nếu có thể buông bỏ thành kiến, thử làm quen với Tạ thiếu tướng quân trong phòng riêng, nói không chừng sau này sẽ có cơ hội gặp gỡ vị tướng quân không ra Bắc tên Tạ Khanh Hoài kia”.

Chúc tiên sinh kinh ngạc, vì câu ‘yêu ai yêu cả đường đi’ nên đối với Tạ Vụ Thanh cũng nảy sinh vài phần hảo cảm.

Uống xong một lượt trà hoa, có người đến hỏi Chúc tiên sinh có tiện đến phòng riêng khác không, có khách muốn mời hắn một chén trà.

Khi Chúc tiên sinh muốn đi, Hà Vị hỏi một câu: “Đặng công tử còn ở hội quán Hồ Quảng sao?”

“Vẫn còn”. Chúc tiên sinh nhẹ giọng đáp, sợ người ngoài nghe thấy.

Chúc tiên sinh đi rồi, cô ngồi đó suy đi tính lại, quyết định đến Thái Phong Lâu trước, xem có cơ hội mời Đặng Nguyên Sơ đến một chút không.

“Thanh Vân Các luôn náo nhiệt như thế”. Quân Khương giúp cô khoác áo.

Đúng vậy, chỗ này từ ngày cô còn bé đến hiện tại đều náo nhiệt thế rồi. Nơi đây từng tiếp đón Khang Hữu Vi cùng Đàm Tự Đồng, ngay cả Thái Ngạc [3] cũng đến, hiện giờ người đi trước đều đã qua đời, Thanh Vân Các lại nghênh chào càng nhiều người hơn.

[3] Khang Hữu Vi là nhà văn, nhà tư tưởng tư sản, lãnh tụ phái Duy Tân ở TQ vào cuối thế kỷ XIX. Khang Hữu Vi cùng Lương Khải Siêu là 2 nhà duy tân nổi bật nhất cùng dâng sớ lên vua Quang Tự yêu cầu cải cách đa dạng lĩnh vực để chống lại sự xâm chiếm của Nhật Bản. Khang Hữu Vi cũng là người nhắc nhở vua Quang Tự cần đánh đổ phe cánh của Từ Hi Thái hậu nhưng sau đó không thành. Về sau, ông cùng những người thân cận phái Duy Tân đến Nhật Bản, Cách mạng Tân Hợi thành công thì về nước hoạt động văn hoá. 

Đàm Tự Đồng là nhà văn, nhà thơ, nhà cách mạng TQ thời cận đại. Sau khi nghe Lương Khải Siêu kể về tài năng và khí phách của Khang Hữu Vi khiến ông bái phục và gia nhập vào phái Duy Tân. Sau khi vụ việc lật đổ Từ Hi Thái hậu không thành, ông không chịu trốn sang Nhật Bản nên bị phe cánh Thái hậu ám sát cùng với 5 người nữa, sử sách gọi là Lục quân tử. 

Thái Ngạc là chính trị gia – quân sự gia kiệt xuất cuối đời Thanh, từng có công lớn trong cuộc Cách mạng Tân Hợi. Ông là quân phiệt thế lực lớn ở Vân Nam, giữ vai trò thủ lĩnh lực lượng chống Viên Thế Khải, được xưng tụng là “Hộ quốc Đại tướng quân” (Về cuộc đời của Thái Ngạc vô cùng nổi tiếng bởi chiến công, mọi người có thể lên Google tìm đọc thêm chi tiết nếu muốn nhé, vì dài quá mình không tóm hết được).

Ngày thường cô ít khi đến Thanh Vân Các, chủ yếu vì nơi này là trung tâm của Ngõ Bát Đại [4], có hơn trăm ngàn kỹ viện cùng chốn phong nguyệt mở cửa, người qua kẻ lại vô cùng phức tạp. Cô từng nhìn thấy bạn học cũ cùng mấy anh lớn trong nhà đến trêu hoa ghẹo nguyệt, nhìn mấy cảnh tượng ve vãn tán tỉnh nhau, so với người khác càng lúng túng hơn nên dứt khoát không lui tới.

[4] Ngõ Bát Đại chỉ tám con ngõ lớn ở Bắc Kinh, là nơi tập trung nhiều thanh lâu kỹ viện từ thời phong kiến nên thường gọi chung như vậy chứ không phải tên riêng.

Nhưng đối với những tửu lầu rạp hát bên cạnh, cô lại là khách quen.

Hoàng thành Bắc Kinh có bốn cổng lớn, nội thành có chín cổng nhỏ, hợp lại tạo thành Tứ Cửu Thành, triều trước đa phần là cho vương công quý tộc ở, trước đây những chỗ giải trí như rạp hát hí kịch hay trà lâu đều bị cấm. Mà căn nhà Hà nhị gia mua chính là dinh thự của quan lại trong quá khứ, cùng với Bách Hoa Thâm Xử đều ở trong nội thành.

Mà ra khỏi cổng Chính Dương Môn là dân chúng nườm nượp không ngừng, phố xá phức tạp, vừa có lâu, vừa có viện, lại có cả cửa hàng. Rất nhiều học sinh trước đây khi vào thành thi cử, những quan viên tỉnh lẻ khác vào kinh đều tụ tập ở chỗ này, dừng chân trong hội quán, bởi vì thương nghiệp phát triển phồn thịnh, cửa hiện lâu đời mọc san sát nhau nên trở thành “ổ tiêu tiền” nổi tiếng.

Chỉ nói riêng tám đại lâu danh tiếng hàng đầu dùng để đãi tiệc đã có năm căn ở chỗ này, bảy cái rạp hát lớn thì có một nửa mở nơi đây. Những hậu nhân giới quý tộc sau khi ăn cơm xong sẽ đến rạp hát nghe các giác nhi nổi tiếng diễn xướng, xem kịch xong thì đến chốn phong nguyệt gần đó, xã giao như vó ngựa cứ đến không ngừng cho đến khi mặt trời mọc đằng đông. Bạc chảy ra ào ào như nước, dù người có gia tài bạc vạn cũng có một ngày tiêu tiền đến mệt nhoài.

Hà Vị đến Thái Phong Lâu đặt một gian phòng nhỏ, sai người đưa tờ giấy đến hội quán mời Đặng Nguyên Sơ. Không bao lâu, gã sai vặt quay về nói, Đặng gia công tử còn đang say rượu, chờ tỉnh hẳn rồi sẽ đến.

Kết quả chờ đến khi Tạ Vụ Thanh tới nơi, Đặng Nguyên Sơ vẫn không có mặt. 

Chuyện này nằm trong dự đoán của cô.

Người ta giác ngộ, thế cục thay đổi trong chớp mắt. Sau một hồi chiến tranh giữa Trực hệ cùng Phụng hệ khiến Đặng gia thất thế.

Lúc trước, khi thế lực Đặng gia còn lớn, gây thù chuốc oán với nhiều người, sau này rớt đài, sợ chuốc hoạ nên mang theo gia sản cùng con cái đến tô giới Thiên Tân và Thượng Hải lánh nạn. Đặng Nguyên Sơ không chịu đi nên ở lại. Chuyện may mắn nhất của hắn chính là lúc trước đến Bộ Ngoại giao làm việc, đây là bộ phận không chịu sự chi phối của bất kỳ phe phái quân phiệt nào, chỉ tôn trọng việc cống hiến vì tổ quốc. Nhưng cũng bởi kẻ thù nhắm đến nhà hắn quá nhiều, cho dù có thầy Tấn bảo vệ, hắn vẫn bị cưỡng chế thành người giữ chức vụ nhàn rỗi. 

Đối với việc này thầy Tấn vô cùng nghẹn ngào, hắn lại là một người trẻ có tài học cùng tham vọng nhưng bị nhốt trong đấu đá của quân phiệt, cả đời học tập không cách nào thể hiện, hoài bão tràn đầy trong lòng cũng chỉ là lời nói suông.

Đặng Nguyên Sơ không muốn ở lại Bộ Ngoại giao liên luỵ thầy Tấn, sau khi xin phép nghỉ bệnh xong, bàn làm việc của hắn đến giờ vẫn trống không. Hà Vị nghe người ta bảo hắn chuyển đến hội quán Hồ Quảng, sống cùng một nữ đào hát nổi tiếng. Mà nữ đào hát kia lại có quen biết với Chúc tiên sinh nên cô mới tranh thủ vừa rồi hỏi qua hắn.

Tạ Vụ Thanh đến trễ, uống một nửa chén cháo lĩnh vào ngày mùng 8 tháng Chạp.

“Hiếm khi thấy em thất thần lúc ăn cơm với anh”. Anh đặt thìa sứ trắng xuống.

“Em vốn muốn anh gặp một người”, cô nói, “Đáng tiếc hắn không chịu tới”.

“Đặng Nguyên Sơ à?” Bạn bè mà hai người cùng biết cũng chỉ có Đặng Nguyên Sơ.

“Anh cũng định gặp cậu ta, cùng cậu ấy tính toán chuyện sau này, không nghĩ tới em lại còn sốt ruột hơn cả anh”, Tạ Vụ Thanh gọi Lâm Kiêu vào, “Gọi điện thoại đến hội quán Hồ Quảng, bảo Đặng Nguyên Sơ đến Quảng Đức Lâu gặp tôi”.

Lâm Kiêu nhận lệnh.

“Anh hung dữ như vậy, hắn càng không dám đến”. Cô oán trách anh.

Tạ Vụ Thanh cầm lấy khăn trắng, lau qua tay: “Bài học đầu tiên của cậu ấy ở Bảo Định là do chính anh dạy, nếu anh không gọi được cậu ấy tới, là do bản thân cậu ta không muốn mặc quân trang nữa, ngày sau cũng không cần gặp lại”.

Nhìn thấy Hà Vị lo lắng, Tạ Vụ Thanh thả khăn tay xuống, thấp giọng nói: “Cậu ấy sẽ đến thôi”.

Quảng Đức Lâu nằm gần đó, chỉ lái xe một đoạn ngắn.

Hà Vị cùng anh ngồi ở ghế sau, nhìn thấy cổng lớn Chính Dương Môn trong đêm, vì cửa sổ xe hạn chế tầm nhìn nên không thể quan sát ngưỡng cao nhất của Chính Dương Môn, chỉ cảm thấy cửa thành kia cao quá, cao đến mức như chạm vào bầu trời.

Đây là con đường trước kia nhất định phải qua nếu muốn vào nội thành, là cánh cổng mà biết bao sĩ tử ôm ấp hy vọng đạt thành công danh tìm đến.

“Có mang theo son không?” Anh thấp giọng thủ thỉ bên tai cô.

Cô sửng sốt, nghiêng đầu nhìn Tạ Vụ Thanh, bị bóng dáng khuôn mặt anh bao trùm.

Bị thương còn muốn làm chuyện này là thế nào.

“Có mang theo”, cô liếc tài xế cùng Lâm phó quan, thì thầm nói, “Trong xe có người”. Trước mặt anh, cô luôn mang theo sự trong sáng của một nữ sinh.

Về phương diện tình cảm, cô hiểu rõ, quả thật mình luôn ngây thơ thẹn thùng.

Tạ Vụ Thanh nhấc chân bắt chéo nhau, cũng nhìn về phía cổng Chính Dương môn bên ngoài ô cửa, ý cười trên mặt chưa tan.

Lúc Hà Vị cùng Tạ Vụ Thanh đến nơi, dưới lầu ở hàng ghế đại biểu đã sớm đầy.

Từ lúc cô còn nhỏ, rạp hát thường không cho phụ nữ ra vào. Sau khi anh trai qua đời, tư tưởng trào lưu mới đã phá vỡ không ít truyền thống về phái nữ, trong bảy rạp hát lớn ở kinh thành, nơi cô đến đầu tiên là Quảng Đức Lâu, ngồi vào phòng riêng mà anh trai thường ngồi, nghĩ đến lời anh trai từng nói: Thế tình là vở kịch, hư danh như cỏ rác.

Anh trai cùng chú hai chiếm được căn cơ của vận tải đường thuỷ Hà gia, đem hết thảy vinh hoa phú quý để lại cho cô. Anh trai tuy là cậu cả của vận tải đường thuỷ Hà gia thì thế nào, trong kinh từ lâu đã chẳng còn ai còn nhớ đến. Giống như chính anh từng nói, thanh danh đều là sương sớm trên ngọn cỏ ngoài đường, thoáng cái xuất hiện rồi biến mất.

Trên cầu thang tầng hai.

Bên cạnh một cái bàn vuông dài ngồi đầy binh lính giữ trị an trong lâu tối nay, ông chủ rạp hát móc ra một xấp lì xì, lần lượt phát cho họ, nói rằng, hôm nay là ngày mùng 8 tháng Chạp, mà qua mùng 8 tháng Chạp sẽ đón năm mới, là một ngày tốt lành. Ông chủ kia vừa thấy Hà Vị liền cười tủm tỉm đi lại, bái một lễ, nhẹ giọng gọi cô hai.

Quân Khương đưa cho ông chủ phong lì xì, chúc một câu làm ăn phát đạt. Ông chủ cảm ơn, thăm dò thân phận khách quý lần này mà Quân Khương đưa đến.

“Là Tạ thiếu tướng quân”. Quân Khương nhỏ giọng nói.

Lần trước anh lên kinh, mỗi lần xuất hiện đều là tiêu điểm của mọi người, đã sớm vang danh khắp Tứ Cửu Thành.

Ông chủ lập tức hiểu ra, trên mặt đầy ý cười, đang muốn mở miệng, mấy vị công tử xuất thân nhà tướng đến từ phía Bắc đã bước xuống thang lầu, cười chào hỏi: “Anh Vụ Thanh ở Phụng Thiên đi vội quá, ngay cả một câu chào cũng không có. Thế là không được, mọi người đều vì anh nên mới đuổi đến tận Bắc Kinh này”.

Tạ Vụ Thanh mỉm cười, cởi găng tay, bắt tay tượng trưng với một người trong số đó.

Bọn họ đi xuống thì trông thấy Hà Vị mặc áo choàng, nhìn chóp mũi cùng đôi môi của cô gái trẻ bị cổ áo hồ ly che khuất, lộ ra chiếc cằm nho nhỏ, đều hoảng hồn một phen, muốn thử vén lớp lông hồ ly chướng mắt kia lên, nhìn rõ khuôn mặt cô gái này. Có điều bọn họ cũng chỉ dám nghĩ, người của Tạ Vụ Thanh chẳng ai dám không chào mà bắt chuyện.

“Vị này là?” Người bắt tay cười hỏi.

Tạ Vụ Thanh cười mà không đáp, chạm tay lên vai cô, nhỏ giọng nhắc nhở: “Nơi này đông người, em đến phòng riêng đợi anh trước”.

Hà Vị đó giờ luôn được người khác giới thiệu đã thành quen, hiếm khi nếm thử mùi vị bị “giấu giếm” thế này, mím môi cười, khẽ gật đầu đáp lại, dẫn theo Quân Khương lên lầu. Cô đi được nửa đường, từ trên cầu thang nhìn anh một cái, thấy Tạ Vụ Thanh cũng nhìn mình, như thể không tận mắt thấy cô vào phòng sẽ không yên tâm.

Cô mềm lòng, đi vào căn phòng đầu tiên.

Vì khách đến hôm nay đều mang thân phận đặc biệt, lo sợ bị ám sát nên phòng riêng xem kịch đều được bố trí mành trúc treo kín trước lan can gỗ, không để người dưới lầu quan sát toàn cảnh.

“Hình như Đặng công tử đến”. Quân Khương giúp cô cởi áo choàng, từ khe hở trên mành trúc nhìn dưới lầu.

Hà Vị cũng nhẹ kéo mành ra, trông xuống dưới.

Đặng Nguyên Sơ thật sự đã lâu không xuất hiện, hắn vẫn đeo cặp kính đồi mồi, râu trên mặt đều được cạo sạch, áo sơ mi và tây trang thay mới trước khi đến gặp Tạ Vụ Thanh. Trên mặt hắn vẫn mang theo nụ cười trước sau không đổi, mất đi một chút khí phách hăng hái, nhiều thêm vài phần công tử kinh thành phong lưu trôi dạt giữa dòng. Đây là chuyện thường thấy ở chốn kinh hoa, nhất là những vương công quý tộc triều trước cùng công tử quân phiệt sau khi rớt đài mất đi quyền thế, ngồi ôm gia tài, không bàn tiền đồ, là hơi thở của người cả ngày chỉ biết đắm mình trong hương châu ấm áp.

Tạ Vụ Thanh bị vây quanh, nhất thời khó dứt ra được.

Hai tay Đặng Nguyên Sơ đút trong túi quần, buồn chán nhìn trong ao, ngẩng đầu lướt qua dãy sương phòng, bất ngờ đối diện với ánh mắt Hà Vị. Hắn cười, không đợi nữa, bước lên tầng trước.

Vào phòng riêng, Đặng Nguyên Sơ trước tiên xin lỗi: “Đêm qua say quá, lúc cô đến gọi, tôi còn chưa tỉnh được”.

Trên người hắn căn bản không có mùi rượu, nhưng Hà Vị không vạch trần. Hắn nói xong, lại mang theo áy náy: “Lúc trước anh Thanh giao cô cho tôi, chút chuyện nhỏ này vẫn không làm xong, lại để cô dùng quan hệ của mình với Bộ Ngoại giao giúp đỡ tôi, việc đó đến giờ còn chưa kịp cảm ơn cô, hôm nay mới có dịp nói”.

Ngoài mành trúc, một đôi ủng quân đội xuất hiện, Tạ Vụ Thanh nói với Lâm Kiêu cùng hai quan quân theo cùng: “Bất kỳ ai đến đều nói tôi đang gặp khách”.

Đặng Nguyên Sơ nghe tiếng Tạ Vụ Thanh, xoay người, nhìn Tạ Vụ Thanh đứng sau tấm mành.

Anh vén mành trúc bước vào, trông thấy Đặng Nguyên Sơ, khẽ thở dài một tiếng.

Mắt Đặng Nguyên Sơ hơi đỏ lên, dù lúc này mặc âu phục nhưng hai chân khép chặt, hành quân lễ: “Thầy Tạ”.

Tạ Vụ Thanh gật đầu, cởi áo khoác ngoài, ném lên ghế xem kịch. Anh không nói lời nào cứ thế cởi áo quân phục tướng lĩnh đã trùm trên người mấy tiếng qua, vết thương ở thắt lưng không thoáng khí, khiến người ta không thoải mái.

Buổi chiều anh uống rượu pha loãng nước trà, trước mắt là hương rượu Mao Đài ấm nóng cùng trà quế hoa trộn lẫn một chỗ, đè áp được mùi thuốc phiện tích tụ lâu ngày trong căn phòng này. Mắt anh như ẩn chứa hương rượu chưa tan hết, khuôn mặt đặc biệt trắng, khoé môi hơi mím lại, thấp thoáng sự nghiêm túc cùng bình tĩnh mà một giáo viên Bảo Định nên có: “Vốn định chọn ngày một mình đến gặp cậu. Vị Vị lại quá sốt ruột, đợi không nổi”.

Tạ Vụ Thanh đứng trước mặt Đặng Nguyên Sơ, chăm chú nhìn hắn: “Có phải ở Bắc Kinh đã gặp phiền phức gì không?”

— HẾT CHƯƠNG 29 —