Linh Dị Âm Dương

Chương 23: Tám Năm



Bao Phú Quý dựa vào góc tường, xóc xóc túi tiền của mình, bên trong chỉ còn vài đồng xu lẻ, tiền cơm chiều nay còn chưa biết đang ở chỗ nào đây. Gã nhìn chằm chằm người đến người đi tấp nập trong trấn nhỏ, bắt đầu tăm tia sàng chọn con mồi thích hợp. Ánh mắt lọc lõi của gã dừng trên một cậu thiếu niên độ mười lăm mười sáu tuổi.

Cậu thiếu niên mặc một bộ đồ vải màu trắng xám, đã vào tháng sáu nên trời bắt đầu nóng, ai nấy đều đổi sang đồ bằng vải mỏng, nhưng cậu ta lại mặc tận hai lớp quần áo dày cui, cho thấy cậu ta sợ lạnh. Khuôn mặt cậu ta rất đẹp nhưng chiều cao thì chỉ ở mức trung bình, hòa vào đám đông là mất hút ngay, vóc người cũng khá mảnh dẻ, đôi môi trắng bợt, thoạt nhìn có vẻ ốm yếu.

Cậu ta đang ôm một con mèo đen sứt tai cụt đuôi trong lòng, lúc một người một mèo đi ngang qua Bao Phú Quý, gã vội đứng dậy đuổi theo cản cậu thiếu niên lại.

“Công tử, xin dừng bước!”

Cố Cửu dừng chân, nhìn người đang chắn trước mặt mình, thấy gã mặc đồ đạo sĩ thì lướt mắt nhìn một vòng từ trên xuống dưới, khẽ cười: “Có việc gì vậy?”

Bao Phú Quý bắt đầu ra vẻ thần bí, tay trái bấm đốt ngón tay, mắt thì nhìn chằm chằm vào Cố Cửu, nhìn tới nhìn lui một lúc lâu, vừa nhìn vừa đi quanh cậu một vòng, còn không quên lầm rầm tụng niệm trong miệng, nhưng lẩm bẩm cái gì thì chẳng nghe ra được. Cố Cửu cũng không vội, đứng yên tại chỗ chờ gã xem cho xong.

Bao Phú Quý đi một hồi rồi dừng lại, mặt mày nghiêm trọng nhìn Cố Cửu: “Công tử, mấy ngày tới cậu phải cẩn thận, nếu không có việc gì thì đừng ra khỏi nhà.”

Cố Cửu cười nhạt: “Sao lại như thế?”

Bao Phú Quý rung đùi đắc ý, dùng ánh mắt sâu xa nhìn Cố Cửu, phán một tràng: “Công tử hai bên tai có sắc đen, sơn căn (1) xám xịt, đầu mũi tím xanh, có phải từ nhỏ đã bị bệnh tật giày vò, nhiều tai nhiều nạn không?” Gã thấy cậu thiếu niên gật đầu thì khoái trá cười cười, tiếp tục giả vờ cao thâm mà nói: “Bần đạo xem ấn đường (2) của công tử đã biến thành màu đen, sắp tới có thể gặp phải chuyện xui xẻo đổ máu, cho nên hảo tâm nhắc nhở công tử một câu, nếu không có việc cần kíp thì hạn chế ra ngoài, cứ yên phận ở trong nhà chờ tai kiếp qua khỏi.”

Cố Cửu nói: “Thật vậy chăng? Nhưng vài ngày nữa tôi phải ra ngoài chạy việc cho người lớn trong nhà, phải làm sao đây?”

Ánh mắt Bao Phú Quý lập lòe tỏa sáng, nhanh nhẹn móc một lá bùa vàng từ trong ống tay áo ra, chần chừ nói: “Hôm nay xem như hai ta có duyên, ta tặng cho công tử một tấm bùa bình an, bảo đảm giúp ngươi tai qua nạn khỏi. Chỉ là…Đạo gia vốn có quy củ, không thể tính quẻ không công, cho nên…”

Cố Cửu thản nhiên tiếp lời: “Cho nên phải trả tiền?”

Bao Phú Quý lập tức nói: “Cái này gọi là của đi thay người, đối với công tử chỉ có lợi chứ không có hại.”

Cố Cửu nhìn Bao Phú Quý, cười nói: “Như vầy đi, tôi cũng tính cho đạo trưởng đây một quẻ, như vậy hai bên xem như hòa nhau, không xem là không công.”

Bao Phú Quý kinh ngạc, ngây người nhìn Cố Cửu.

Cố Cửu nhìn mặt mũi của Bao Phú Quý, lời tuôn như thác đổ: “Giếng bếp gãy đổ, lương thực trống không; vầng trán hẹp, cả đời bần hàn. Hạ đình (3) dài mà hẹp, nông, mỏng, không nhà không cửa, cả đời nghèo khổ, tuổi già không được an cư.” Cậu vuốt vuốt lông Tiểu Đệ, cười nhẹ: “Tôi thấy ấn đường của đạo trưởng biến thành màu đen, gần đây có thể sẽ gặp phải tai nạn đổ máu.”

Bao Phú Quý nghe Cố Cửu nói năng rõ ràng mạch lạc, nhất thời bị hù sợ không nói được lời nào, sau khi hoàn hồn thì mới bực bội giãy nảy lên: “Nói hươu nói vượn, định lừa ông mày hả!”

Gã túm lấy cổ áo Cố Cửu: “Quẻ đã tính rồi, trả tiền mau!”

Bao Phú Quý còn chưa kịp làm gì, chỉ nghe một tiếng mèo kêu sắc lạnh, trên tay gã đã bị cào ra một đường máu, đau đớn tức khắc ập tới, lúc này gã mới nhận ra mình vừa bị con mèo kia xòe móng tấn công. Bao Phú Quý nhìn vào đôi mắt sâu thẳm sáng rực của mèo đen, bất giác rùng mình một cái, vô thức lùi về sau một bước.

Cố Cửu sửa lại cổ áo, cũng không giận gì.

“Đạo trưởng không biết tôi, chắc là mới đến đây lần đầu phải không?”

Bao Phú Quý cứng người: “Làm sao cậu biết? Cậu…chẳng lẽ cậu thực sự biết đoán mệnh?” Lẽ nào mình gặp được người trong nghề thật rồi sao?

Cố Cửu nói: “Trong trấn này, thậm chí là người dân sống ở vùng lân cận nếu muốn xem bói thì chỉ xem ở Thái Nguyên Quan chỗ tôi, hôm qua tôi đã thấy ông lảng vảng ở đây rồi, ông thử nghĩ lại xem từ hôm qua đến giờ có ai đến nhờ ông bói quẻ không?”



Bao Phú Quý nghe Cố Cửu nói thì chợt khựng lại, phát hiện ra lời của cậu nói không sai, quả thật không có ai đến xem bói cả. Thậm chí nhiều khi gã ngắm trúng vài người, “chủ động xuất kích” như vừa rồi làm với Cố Cửu cũng không ăn thua gì, tất cả bọn họ đều xua tay từ chối, vội vã tránh thoát khỏi sự đeo bám của gã.

Ngay lúc Bao Phú Quý còn đang nghĩ ngợi, Cố Cửu đã quay người chuẩn bị rời đi. Thấy cậu dợm bước đi, gã vội chạy lên ngăn lại: “Đạo trưởng! Vậy…vậy cậu xem tai nạn đổ máu này của tôi có cách gì tránh khỏi hay không?”

Cố Cửu lấy một lá bùa bình an từ trong tay áo ra đưa cho Bao Phú Quý, nhưng mà ngay lúc gã vươn tay ra định nhận lấy thì cậu lại thu trở về, nhẹ nhàng nhắc nhở: “Của đi thay người.”

Mặt mày Bao Phú Quý cứng đờ, lúng túng moi túi tiền đeo bên hông rồi dốc ngược xuống. Gã xòe bàn tay cho Cố Cửu xem, chẳng cần đếm làm chi, trên tay gã chỉ có vỏn vẹn hai đồng tiền trinh.

“Tôi…chỉ còn nhiêu đây thôi.”

Cố Cửu cũng không chê ít, thu hai đồng tiền đó rồi đưa lại tấm bùa cho Bao Phú Quý. Cậu tưởng việc đến đây là xong, ai ngờ lúc sắp đi lại bị gã chặn lại lần thứ ba.

“Đạo trưởng, vậy…tôi… Cậu nói tôi phải khổ cực lúc về già, có cách nào thay đổi cái này không?”

Cố Cửu trả lời đơn giản: “Bớt đi lừa gạt người ta, siêng năng làm việc thiện.”

Cố Cửu ôm mèo đi khuất rồi, Bao Phú Quý vẫn còn đứng nguyên chỗ đó, cầm lá bùa bình an lật qua lật lại xem xét, lúc thì lo lắng vì người kia nói quẻ tượng rành mạch quá, lỡ đâu ứng nghiệm thì sao, lúc lại nghi ngờ có phải mình vừa gặp một kẻ lừa đảo cao tay hơn hay không. Cuối cùng, lúc gã bóp bóp túi tiền rỗng tuếch, phát sầu vì không biết kiếm đâu ra tiền ăn cơm thì bỗng nhiên nhìn đến cánh tay bị mèo cào chảy máu của mình, lập tức cả kinh: Đây chẳng phải cũng là đổ máu hay sao. Nhưng mà vì sao tai nạn đã xảy ra rồi mà người kia còn muốn lấy tiền của mình để đổi bùa bình an? Hay là gặp phải siêu lừa thật rồi? Vậy rốt cuộc là chuyện đổ máu của mình đã qua hay chưa?



Cố Cửu tiếp tục ôm Tiểu Đệ đi đến một cửa tiệm bán nhang đèn lớn nhất trên trấn. Vừa đi đến trước cửa cậu đã gặp một thanh niên thân cao chân dài, khôi ngô tuấn tú nhưng vẻ mặt lạnh lùng cầm hai cái túi đi ra.

Cố Cửu tươi cười: “Sư huynh.”

Lúc còn bé, bởi vì bị âm khí xâm nhập sâu vào thân thể nên Cố Cửu đành phải nghe theo lời sư phụ ở lại với Thiệu Dật trong đạo quan, chờ sư phụ tìm được pháp khí có thể trấn áp âm khí trong người cậu, chỉ là vừa chờ liền chờ liên tục tám năm ròng. Bây giờ Cố Cửu đã mười sáu tuổi, Thiệu Dật năm nay cũng vừa tròn hai mươi, đã trưởng thành rồi.

Cố Cửu cho Tiểu Đệ men theo cánh tay mình bò lên vai ngồi xổm trên đó để chừa tay trống giúp Thiệu Dật xách một túi.

Thiệu Dật để cái nhẹ hơn cho Cố Cửu. Hắn vẫn mang vẻ mặt cáu kỉnh, ưa nhăn mày, kém nhẫn nại như trước kia.

“Sao mà đi lâu quá vậy?”

Cố Cửu đáp: “Trên đường đệ gặp phải một kẻ giả làm đạo sĩ đi lừa đảo.”

Thiệu Dật nhếch môi cười, sau đó lấy một cái túi nhỏ từ trong ngực áo ra ném cho Cố Cửu. Cố Cửu đón được, nâng tay ước lượng: “Lần này nhiều vậy.”

“Chắc chủ nhà có tiền.”

Mấy năm nay Phương Bắc Minh đi khắp trời nam đất bắc, vừa tìm kiếm Huyết Sát Âm Long trận vừa bắt quỷ cho người ta kiếm tiền. Mỗi lần gom góp được một mớ tiền thì sẽ chia làm hai phần, một phần đem đi giúp người nghèo, phần còn lại thì gửi những lái buôn đi ngang qua quận Kinh Lăng mang về tiếp ứng cho hai đồ đệ. Có lúc kiếm được nhiều tiền thì được đến khoảng mấy trăm lượng bạc, còn lúc nào túng thì nửa năm cũng không thấy đồng nào.

Nhưng mà nói vậy thôi chứ thật ra hai người Cố Cửu cũng không còn cần Phương Bắc Minh gửi tiền về nuôi nữa. Thiệu Dật đã có thể tự mình bắt quỷ, đoán mệnh, khám bệnh cho người ta. Hơn nữa từ khi hai người ở lại hẳn trong đạo quan thì bắt đầu có người đến dâng hương, mỗi tháng thu vào cũng được mấy trăm văn tiền. Không những vậy đạo quan còn có đất ruộng, bọn họ tự trồng rau ăn, chi phí sinh hoạt không tốn bao nhiêu, khoản tốn nhiều nhất chỉ có giấy vàng, chu sa và vài loại đạo cụ thường dùng mà thôi.

Ngày hôm qua người dân sống trong thôn dưới chân núi đem tin về, nói rằng ông chủ cửa hàng nhang đèn trấn trên báo là có thư của sư phụ gửi về, cho nên hôm nay hai người mới đến đây. Hiện giờ tiền chi tiêu trong đạo quan đều do Cố Cửu quản lý, mỗi lần có tiền thì Thiệu Dật đưa luôn cho Cố Cửu giữ.

Hai người tay xách nách mang, khệ nệ đem đống đồ chất lên xe bò của người quen trong thôn, lên đường đi về.

“Hai vị tiểu đạo trưởng, ăn cơm trưa đã rồi hãy về.” Người đánh xe chở họ đi tên là Trần Lượng, là người mang chén canh gà lên cho ba thầy trò vào ngày đầu tiên họ trở về đạo quan.



Cố Cửu cảm ơn rồi từ chối: “Không quấy rầy Trần đại ca, mấy ngày nữa là đến sinh thần của Đẩu Mẫu, trong quan còn nhiều việc phải làm lắm.”

Trần Lượng cũng không nài thêm nữa, bảo bọn họ lên núi cẩn thận.

Cố Cửu và Thiệu Dật đang trên đường leo lên núi thì gặp vợ và con gái của Trần Lượng là Trần Dư thị và Trần Ngân Linh đang đi xuống.

Hồi trước, sau khi ba người Cố Cửu vừa về đạo quan được mấy ngày thì Trần Ngân Linh được sinh ra. Dưới chân núi chỉ có mấy hộ gia đình sinh sống nên dân cư khá là thưa thớt, càng chẳng có mấy đứa trẻ con tầm tuổi của Ngân Linh, cho nên cô bé thường xuyên chạy lên đạo quan chơi, rất quen thân với Cố Cửu và Thiệu Dật. Cô nhóc vô cùng thích Cố Cửu, bây giờ vừa gặp cậu đã thoăn thoắt chạy tới, trong tay còn cầm theo một bó hoa dại mới hái.

“Tiểu Cửu thúc thúc.”

Cố Cửu ôm cô bé lên xoay tròn một vòng, sau khi thả người xuống thì đưa tay xoa đầu Ngân Linh, còn giúp cô bé sửa lại thẻ bài đeo trên cổ, hỏi: “Ngân Linh đi đâu chơi đó?”

Trẻ con dương khí còn yếu là đối tượng dễ gặp phải quỷ quái nhất, lòng đề phòng người lạ của chúng cũng không cao, đôi khi là người hay không phải người cũng chẳng phân biệt được. Một lần nọ, lúc Ngân Linh lên ba có theo cha mẹ đi thăm người thân, đêm đó ngủ lại nhà người ta thì đột nhiên cô bé bắt đầu nói chuyện và chơi đùa với một kẻ vô hình nào đó. Hai vợ chồng Trần Lượng sợ muốn chết, sau khi trở về vội vàng lên đạo quan xin bùa trừ quỷ để con gái đừng bị ma quỷ bắt đi mất.

Ngân Linh sờ sờ lá bùa trên cổ, trả lời Cố Cửu: “Con đi hái rau dại với mẹ ạ.”

Chị Trần đưa cho Cố Cửu một bó rau dại to đã được cột kĩ lưỡng.

“Vừa mới xuống chỗ hái rau thôi mà nhóc con này đã nghĩ ngay đến chuyện phải chia cho các cậu ăn cùng rồi đấy.”

Cố Cửu cười nhận lấy bó rau, có qua có lại đưa cho Tiểu Ngân Linh một gói kẹo.

Vẻ mặt tươi cười của chị Trần càng rõ ràng hơn, tiểu đạo trưởng này từ hồi còn bé xíu đã như vậy, nhìn tuổi nhỏ vậy thôi chứ lúc nào cũng chu đáo. Lần nào Ngân Linh gặp cậu cũng được cho vài viên kẹo, hẳn là có chuẩn bị sẵn. Người ta đối tốt với con mình, người làm mẹ đương nhiên là vui lòng rồi.

Hai bên đứng bên đường núi trò chuyện thêm chốc lát, chị Trần hẹn bọn họ đến sinh thần của Đẩu Mẫu lại lên núi rồi mới dẫn Ngân Linh rảo bước về nhà.



Cố Cửu và Thiệu Dật vừa về tới đạo quan liền thấy có hai người đàn ông đang đứng trước cửa ngó nghiêng. Đạo quan chỉ có hai sư huynh đệ ở, hôm nay cả hai người cùng xuống núi thì đương nhiên phải đóng cửa.

Hai người nọ nghe thấy tiếng bước chân thì lập tức quay đầu nhìn

Người lớn tuổi hơn chần chừ hỏi thăm: “Hai vị đây có phải là đạo trưởng ở Thái Nguyên Quan không?”

Cố Cửu và Thiệu Dật đồng loạt gật đầu: “Đúng vậy.”

Người trẻ tuổi hơn đột nhiên chen lời: “Sao đạo trưởng gì mà trẻ quá vậy?” Anh ta mới vừa nói xong đã bị người lớn tuổi kia trừng mắt liếc một cái.

Cố Cửu và Thiệu Dật đã tập mãi thành quen rồi. Bây giờ còn đỡ chứ năm đó lúc Phương Bắc Minh vừa mới rời đi, hai người đợi mòn mỏi trên núi hơn mười ngày cũng không thấy bóng dáng ai đến dâng hương, chỉ có lác đác vài người dân sống trong thôn dưới chân núi thỉnh thoảng tới lui vài lần mà thôi. Những người sống trong vùng vì Thái Nguyên Quan thường xuyên không có ai nên dường như đã quên mất nơi này, dù nhà ở gần đó cũng không nghĩ đến việc đến Thái Nguyên Quan lễ bái hay cầu quẻ.

Khi đó, Cố Cửu và Thiệu Dật túng tiền, đợi lâu không thấy có ai đến nên đành phải xuống núi bày quán. Trong hai người thì Thiệu Dật lớn tuổi và chững chạc hơn, nhưng dù gì lúc đó hắn cũng chỉ mới là một đứa nhóc choai choai mười hai tuổi đầu, ai mà tin hắn có thể bắt quỷ, xem bói, tu vi cũng xếp vào loại khá đâu, thậm chí mọi người còn xúm lại xem hai đứa như xem khỉ.

Lúc mới bắt đầu, Thiệu Dật còn bị xem như người đi tìm vật nuôi, nhà ai mất gà, mất trâu, heo chạy lạc đều tới nhờ hắn xem cho một quẻ. Cố Cửu còn tưởng sư huynh sẽ giận dỗi chứ, ai ngờ hắn vậy mà không bực tức tí nào, bình tĩnh thản nhiên xem bói, tính đâu trúng đó làm người ta kinh ngạc một phen. Dần dần, có nhiều người nghe danh bán tín bán nghi tìm đến thử. Cứ như vậy qua hai ba năm sau, Thiệu Dật dựa vào bản lĩnh của chính mình mà gây dựng được danh tiếng trong vùng.

Bây giờ đã qua tám năm, Cố Cửu cũng được xem như tinh thông đạo thuật, có sư huynh đi trước mở đường, hiện giờ người biết đến cậu cũng không ít.