Linh Dị Âm Dương

Chương 25: Ngân Linh



Lúc sắp đến giờ Mùi, có người gõ cửa phòng trọ của Cố Cửu và Thiệu Dật.

Thiệu Dật: “Vào đi.”

Đỗ Hưng Đức đẩy cửa tiến vào, đi theo ông ta ngoài Đỗ Văn Tuyên ra còn có ba người khác, một nam một nữ và một đứa bé trai tầm bảy tám tuổi.

Cố Cửu nhìn thoáng qua đôi tay đang bọc băng vải kín mít của đứa nhỏ, cậu đoán hẳn nó chính là đứa bé nghịch chết con rắn nhỏ, sau đó trên tay bị mọc đầy sởi giống như da rắn.

Quả nhiên, vừa mới đặt chân vào cửa đôi vợ chồng đó liền bắt đầu ra sức nài nỉ Cố Cửu và Thiệu Dật nghĩ cách cầu Liễu tiên bỏ qua cho con mình. Tuy rằng mấy nốt sởi giống da rắn đó không đau, cũng không còn ngứa nữa nhưng trông vô cùng đáng sợ. Mấy ngày nay con trai bọn họ ngày nào cũng khóc lóc dữ dội, nếu còn tiếp tục như vậy nữa thì nó sẽ thực sự hỏng bét.

Thiệu Dật nhìn đứa bé sa sút tinh thần đến nỗi gầy rộc, hai má hóp lại thấy rõ, cậu hỏi: “Ngươi đã biết lỗi chưa?”

Đứa bé òa lên khóc to: “Con biết sai rồi, con biết lỗi rồi mà, sau này con không dám chơi rắn nữa!”

“Vậy còn những loài vật khác thì sao?”

Bé trai nước mắt nước mũi tèm lem nức nở đáp: “Không dám, không dám ạ.”

Tuy rằng cái sai lớn nhất của đứa bé này là coi thường mạng sống của sinh linh, nhưng nó mới có tí tuổi đầu nên đâu có hiểu được những đạo lý sâu sắc này, hai người Cố Cửu cũng không giảng giải dài dòng làm gì. Cố Cửu chỉ nói với cha mẹ đứa bé: “Đợi lát nữa ba người cũng đi theo luôn, chúng tôi bảo làm gì thì cứ làm theo là được. Nhớ kĩ là phải thành tâm thành ý, chỉ cần có một chút ý nghĩ bất kính thôi thì sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn cả bây giờ. Đến lúc đó chúng tôi cũng không giúp được đâu.”

Đôi vợ chồng vội vàng gật đầu, hứa hẹn: “Chúng tôi hiểu rồi, hiểu rồi. Chỉ cần hai vị đạo trưởng chịu giúp thì làm gì chúng tôi cũng chịu.”

Sau đó, cả đoàn rời khỏi khách điếm, đi đến nhà họ Đỗ.

Cố Cửu lập đàn tế, Thiệu Dật cầm kiếm bước tới trước đàn, vừa múa kiếm vừa tụng: “Khói thơm trọng hậu ứng càn khôn, cháy đượm hương nồng thấu Thiên môn……”

Khói từ nhang cắm trên đàn bắt đầu bay thẳng lên không rồi từ từ tản ra. Chú thỉnh thần được niệm xong, trong sân ai nấy đều nín thở hồi hộp chờ đợi, không dám tạo ra một tiếng động nào dù là nhỏ nhất, ngay cả nhóc con dù rất sợ nhưng cũng chỉ nhắm tịt mắt lại chứ không dám kêu tiếng nào.

Đỗ Hưng Đức đợi lâu mà chưa thấy có chuyện gì xảy ra thì hơi sốt ruột, nhưng không dám mở miệng hỏi. Ông ta nhịn không được thử nhìn quanh quất bốn phía, ai ngờ vừa mới động đậy thì bỗng một trận gió mạnh nổi lên, ngay cửa lớn đối diện với pháp đàn chợt xuất hiện một đôi mắt rắn đen kịt to tổ bố, to gần bằng nắm tay người lớn.

Đỗ Hưng Đức đối mặt với đôi đồng tử đen nhánh dựng thẳng của con rắn thì cả người đổ mồ hôi lạnh, vội vã cúi đầu rụt cổ không dám nhìn nữa.

Cố Cửu nhìn con rắn đen to bự đột ngột xuất hiện này cũng giật mình lùi về sau mấy bước, không phải vì sợ pháp lực của nó mà là sợ cái thân dài dài mềm mềm của nó.

Con rắn đen bò lên trước một chút, ngay lúc nó nhìn thấy đứa bé trai đang nép trong một góc sân thì dựng đứng cả nửa thân mình lên mà không hề có dấu hiệu báo trước, cái miệng lớn như cái chậu há ra, thè lưỡi phát ra tiếng xì xì xì đe dọa.

Nhóc con kia thấy vậy thì hồn phi phách tán, rên lên một tiếng, vừa định ngoác miệng ra gào thì đã bị một bàn tay đè đầu lại.

“Quỳ xuống, dập đầu.” Cố Cứu giữ chặt bả vai đứa nhỏ rồi kêu cha mẹ của nó cũng làm theo như vậy.

Cha mẹ đứa bé quýnh quáng quỳ xuống, đè đầu con mình dập đầu liên tục mấy cái mạnh đến nỗi nghe được cả tiếng bang bang. Người cha vừa khấu đầu vừa thành khẩn cáo lỗi với rắn đen lớn, nói rằng mình không dạy dỗ con đến nơi đến chốn, để nó hại chết con cháu của Liễu tiên. Cả nhà hắn thật tâm biết sai muốn chuộc lỗi, cầu xin Liễu tiên tha cho con trai họ một mạng.

Cố Cửu nói với Liễu tiên: “Ngươi có yêu cầu gì thì cứ nói, miễn là ngươi không hại đến tính mạng người ta thì chúng ta đều chấp nhận.”

Vừa dứt lời, Cố Cửu liền đưa tay đốt một lá bùa.

Có một bản sách được lưu truyền tên là “Quỷ thoại liên thiên”, trong đó có nói rằng đôi khi quỷ hồn tâm trí bị nhiễu loạn nên thường nói những lời lộn xộn không rõ nghĩa, nghe như một thứ ngôn ngữ nào khác chứ không phải tiếng người. Vì vậy, người trong huyền môn đã tạo ra một loại bùa có thể giúp người làm phép thông hiểu những lời nói đó, khi cần nói chuyện với yêu quái hay sơn mị cũng có loại bùa tương tự có thể dùng.

Những người khác hồi hộp theo dõi, lá bùa bốc cháy, Liễu tiên đắc ý uốn éo cả người, còn xoay tới xoay lui vài vòng giễu võ giương oai.



Thiệu Dật lạnh mặt, hừ một tiếng: “Ngươi nhất định muốn đòi mạng người? Xem ra ngươi thật sự không biết tự lượng sức mình.” Thiệu Dật đưa tay vung kiếm gỗ đào lên rồi lấy ra mấy thẻ bài gỗ đào gọi sấm sét.

Đôi vợ chồng thấy vậy thì tưởng là đàm phán thất bại rồi, suýt nữa kìm không được bật khóc.

Cố Cửu vội chạy lại ngăn Thiệu Dật, quay sang nói lời phải trái với Liễu tiên:

“Nếu đánh nhau thật thì ngươi thử nghĩ xem mình có thể hứng nổi vài đợt sấm sét hay không? Nếu đánh chết luôn thì miễn bàn rồi, cái đáng sợ là bị đánh cho sống dở chết dở. Khoan nói tới sư huynh ta, ngay cả ta đây trên người đầy âm khí cũng đủ để cắn nuốt ngươi rồi. Ngươi tu hành cũng không dễ dàng gì, suy nghĩ kĩ lại đi, ngươi lại còn có con đàn cháu đống đầy ra đó. Bây giờ hai bên đều lui một bước, ngươi trở về địa bàn của mình vui vầy với con cháu chẳng phải tốt hơn nhiều sao?”

Sư huynh đệ hai người cùng diễn một tuồng, một kẻ cho ăn đấm, một kẻ cho ăn xôi. Liễu tiên im lặng nửa ngày không nhúc nhích, dường như đang suy xét lời của Cố Cửu. Tiếp đó, nó lượn tới lượn lui tại chỗ vài vòng, Cố Cửu nhanh tay châm thêm một lá bùa.

Lần này, sắc mặt của Cố Cửu và Thiệu Dật thả lỏng hơn nhiều. Cố Cửu tiếp tục đốt vài lá bùa nữa, nghe xong những yêu cầu của Liễu tiên thì tiễn nó đi.

Chờ cái đuôi của rắn đen bự biến mất ở cửa sau, Đỗ Hưng Đức mới hoàn hồn, phát hiện ra lưng áo của mình đã ướt đẫm từ bao giờ. Ông ta vội hỏi: “Hai vị đạo trưởng, Liễu tiên nói thế nào?”

Cố Cửu xoa đầu đứa bé trai, nói với cha mẹ của nó trước: “Con rắn mà con của hai người hại chết là cháu trai của Liễu tiên nên nó mới giận dữ đến vậy. Nhưng dù sao thì mạng của nhóc này đã được cứu rồi. Còn đôi tay thì hai người dẫn nó về, lập bài vị cho con rắn nhỏ đó trong từ đường. Mỗi tháng vào ngày bảy, mười bảy, hai mươi bảy thì cho nhóc quỳ dập đầu một trăm cái. Đến ngày giỗ của rắn nhỏ thì phải chép kinh, tụng kinh siêu độ cho nó. Phải làm liên tục trong hai năm, không được chậm trễ, bằng không thì da rắn trên tay con trai hai vị sẽ không khỏi.”

Mẹ đứa bé mặt mũi trắng bệch, ấp úng hỏi: “Lỡ như…lỡ như hai năm sau vảy rắn vẫn không biến mất thì làm sao?”

Thiệu Dật nghiêm mặt, lạnh lùng nói: “Ước hẹn này có Thiên Đạo giám sát, nếu nó vi phạm thì sẽ bị trừng phạt, chỉ cần các vị thành kính thì không có chuyện lỡ như.”

Nghe vậy hai vợ chồng mới yên tâm, tuy rằng hai năm không phải là một khoảng thời gian ngắn, nhưng so với mạng sống và đôi tay lành lặn thì không đáng là bao.

Cố Cửu lúc này mới quay sang Đỗ Hưng Đức, dặn dò: “Còn ông, ông lập mộ cho con rắn nhỏ kia ngay chỗ nó chết, mỗi năm vào ngày bảy, mười bảy, hai mươi bảy và ngày giỗ của nó cũng dâng hương quỳ lạy nó một lần, lập bàn cúng tế cho nó ở tám hướng trong nhà, đồ cúng thì để cho con cháu của Liễu tiên hưởng dụng. Chỉ cần ông không nổi ý xấu thì con cháu nó sẽ không quấy rầy nhà ông nữa.

Đỗ Hưng Đức gật đầu lia lịa, cam kết: “Tôi nhất định sẽ làm theo.”

Lúc đầu Đỗ Hưng Đức mong bọn họ sẽ mời Liễu tiên đi nơi khác, nhưng ông ta sực nhớ lại chuyện của Hôi tiên lần trước. Cháu của Liễu tiên gặp nạn là do khách đến nhà làm, nhưng mấy chục đứa con cháu của Hôi tiên là do chính ông ta tiêu diệt. Nếu bây giờ mà mời Liễu tiên đi vậy lỡ Hôi tiên quay lại báo thù thì biết làm thế nào? Vừa nghĩ đến đó, Đỗ Hưng Đức dẹp ngay ý định ban đầu, cứ như bây giờ đã là tốt nhất rồi.

Nhưng để đề phòng họa vô đơn chí, Đỗ Hưng Đức vẫn muốn xin Thiệu Dật vài lá bùa phòng thân.

Thường thì Thiệu Dật sẽ không mở miệng trong mấy chuyện này. Cố Cửu quen tay quen việc lấy ra mấy lá bùa, nói: “Đem bùa này dán đi dán trong nhà, nhớ tránh tám hướng bát quái ra, như vậy sẽ không sợ rắn con rắn cháu chạy lung tung bị lạc đường nữa. Nếu ông cảm thấy chưa yên tâm thì tìm mua vài món đồ cổ làm bằng vàng treo trong nhà, cũng tránh tám hướng đó ra là được.”

Bùa thì Đỗ Hưng Đức không lấy làm lạ, nhưng còn đồ cổ bằng vàng thì… “Đồ vàng cũng được sao ạ?”

Cố Cửu trả lời: “Đúng vậy. Rắn trong địa chi thuộc Tị. Tị thuộc hỏa trong ngũ hành, mà trong ngũ hành thì kim sinh thủy. Ông để nhiều đồ vàng trong nhà là theo nguyên lý này, nước nhiều thì dập tắt được lửa, rắn không dám vào. Nhưng đặt đồ vàng cũng phải vừa phải thôi, thủy thuần âm, nước nhiều thì âm khí cũng nhiều.”

Đỗ Hưng Đức nghe một tràng mà xây xẩm mặt mày, chắp tay nói luôn: “E rằng phải nhờ đạo trưởng giúp cho vậy.”

Cha mẹ của đứa bé cũng mau mắn mở lời nhờ Cố Cửu ra tay giúp nhà bọn họ sắp xếp một phen.

Cố Cửu cười cười gật đầu: “Được thôi.”

Cái này là thêm cả mục bố trí phong thủy nữa, tiền công chắc hẳn phải cao hơn rồi.

Thiệu Dật đơ mặt dọn dẹp pháp đàn. Đứa bé Cố Cửu nhỏ xíu nhát gan năm xưa đã biến mất từ lâu rồi, bây giờ nhóc ta không những không sợ hắn mà còn thêm tật ham tiền, lần nào ra ngoài làm việc cũng nghĩ đủ cách để mò thêm thù lao. Đương nhiên Cố Cửu không làm gì xấu cả, chuẩn bị để phòng ngừa thì càng tốt, nhưng hắn không quen mở miệng gợi ý, khi nào chủ nhà hỏi trước thì hắn mới nói ra.

Lúc trở về đạo quan, Cố Cửu ôm trong người tận một trăm lượng bạc. Nhà Đỗ Hưng Đức và nhà đứa bé kia đều là phú hộ có của ăn của để. Mỗi nhà gửi hẳn năm mươi lượng, so với thời gian gần đây thì đúng một khoản thu khá hậu hĩnh.



Hai người Cố Cửu học theo sư phụ mình, dành một nửa số tiền đó phân phát cho người nghèo khổ đau yếu không nơi nương tựa, còn lại thì để lại sắm sửa đồ đạc cần dùng.

Mấy ngày sau đó không có ai đến đạo quan mời làm việc nữa, Cố Cửu và Thiệu Dật chỉ ở trong quan không ra ngoài. Sinh thần của Đẩu Mẫu đã gần kề, bọn họ cũng muốn dành thời gian dọn dẹp cho sạch sẽ tinh tươm để chuẩn bị đón tín đồ khắp nơi đổ về cúng bái.

Hôm nay, Trần Ngân Linh cắp theo một cái rổ hoa nho nhỏ, bên trong đựng đầy hoa dại mới hái, nhảy chân sáo vào đạo quan tìm Cố Cửu chơi.

Ngân Linh bước vào cửa lớn, vừa ngước mắt nhìn đã thấy trên mái nhà cong cong của chính điện có một chú mèo đen đang nằm. Cô bé vội lấy một cái vòng hoa từ trong rổ ra, cầm hai tay đưa lên như hiến báu vật, la lớn: “Tiểu Đệ, chị bện vòng hoa cho em này, tặng em đó!”

Tiểu Đệ đang gối đầu lên chân trước ngủ ngon lành, bị đánh thức thì lười biếng nhấc đầu lên nhìn thoáng qua. Ban đầu nó bơ đẹp cô bé ở dưới kia, nhưng Ngân Linh lại vô cùng cố chấp, Tiểu Đệ không chịu xuống nên cô bé cứ đứng dưới đất gào mãi. Cố Cửu đang ở trong điện thờ phụ bên cạnh lau tượng, nghe thấy tiếng kêu thì ném khăn ướt sang một bên chạy ra ngó.

“Tiểu Đệ, Ngân Linh kêu nhóc kìa.”

Tiểu Đệ bất đắc dĩ “meo” một tiếng, duỗi người, đu theo cây cột to nhảy xuống, vừa đến nơi lập tức lười biếng nằm dài ra nền đất sưởi nắng tiếp.

Ngân Linh chạy đến bên cạnh, cẩn thận đội vòng hoa lên đầu Tiểu Đệ, còn vuốt ve một bên tai còn nguyên vẹn của nó, phồng má khen ngợi: “Tiểu Đệ thật xinh đẹp.”

Tiểu Đệ ráng nể mặt rên lên một tiếng ai oán.

Cố Cửu phụt cười ra tiếng: “Ngân Linh, con lại quên nữa rồi, Tiểu Đệ là con trai, con trai thì không có khen là xinh đẹp.”

Ngân Linh nghịch ngợm lè lưỡi, đứng lên: “Tiểu Cửu thúc thúc, con ra sân sau thăm bé người giấy có được không?”

Đúng lúc Cố Cửu đang định thay nước nên đồng ý ngay: “Được chứ, Tiểu Cửu thúc thúc đi với con.”

Cố Cửu vừa đi vừa hỏi: “Con lên đây một mình hả?”

Ngân Linh trả lời: “Bạn thân của con đưa con lên.”

Cố Cửu à một tiếng: “Là bạn nam hả?”

“Dạ vâng ạ.”

“Vậy sao bạn con không vào đây chơi cùng?”

Ngân Linh chu chu miệng: “Bạn ấy không dám vào, bạn ấy sợ ạ.”

Cố Cửu cười, mấy đứa nhỏ dưới chân núi quả đúng là chỉ có một mình Ngân Linh thích lên đây chơi mà thôi, những đứa trẻ khác cậu đã từng gặp rồi, chúng chỉ dám đứng đằng xa tò mò nhìn vào đạo quan, vừa thấy Cố Cửu bước ra bèn chạy mất dạng.

Hai người đi ra sân sau, tiến lại gần một cây đào có tán cây khá lớn. Năm thứ hai Cố Cửu đến đây ở đã trồng cây đào này, nó từ một cái hạt bé xíu lớn thành một cây đào cao to như hôm nay. Dưới gốc cây đào có một nấm mồ nho nhỏ, phía trước cắm một bia mộ làm từ thẻ bài gỗ, bên trên để trống không ghi gì, bởi vì phía dưới nấm mồ này chôn rất nhiều rất nhiều người giấy nhỏ.

Hồi đầu lúc Cố Cửu mới bắt đầu chôn người giấy, Thiệu Dật còn không ưng lắm, hắn cảm thấy Cố Cửu dành quá nhiều tình cảm cho chúng nó.

Nhưng Cố Cửu chẳng có cách nào khống chế cảm xúc của mình. Lúc những người giấy còn sống, chúng nó có thể nói, có thể đùa nghịch, có thể làm nũng. Trong lòng Cố Cửu, những nhóc người giấy đó chẳng khác gì người sống cả.

Tuổi thọ của người giấy rất ngắn, nếu không may mắn được hưởng công đức cam lộ thì nhiều nhất chỉ tồn tại được mười ngày, sau mười ngày sẽ vĩnh viễn ra đi. Mặt mũi của chúng nó không giống nhau, tính cách cũng không đứa nào giống đứa nào. Có nhóc thì hoạt bát, có nhóc lại hay thẹn thùng, cũng có nhóc kiêu ngạo lém lỉnh, mỗi người giấy đều là độc nhất vô nhị. Không phải bọn chúng không ý thức được sinh mệnh ngắn ngủi của mình, chúng nó biết mình sẽ sống được bao lâu, thế nhưng lúc đối mặt với việc sắp mất đi sự sống, chúng chưa bao giờ buồn rầu. Người giấy nói đối với chúng, có thể được sống trên đời này một lần cũng đã hạnh phúc lắm rồi.

Sau khi chúng mất đi, sẽ có người giấy mới nhanh chóng xuất hiện thay thế để giúp chủ nhân làm việc, nhưng nếu sau khi chúng nó biến mất, ngay cả chủ nhân đã tạo ra chúng cũng không còn nhớ đến chúng thì thật đáng buồn biết bao. Có lẽ khi đó người giấy nhỏ mới thật sự cảm thấy bi thương.

Lúc còn trên đời là một nhóc người giấy vui vui vẻ vẻ, thì sau khi mất đi, có chủ nhân bầu bạn nhớ về, hẳn cũng sẽ là một nhóc người giấy vui vui vẻ vẻ.
— QUẢNG CÁO —